Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây
Tháng 6 năm 1919, nghe tin các đoàn đại biểu mười mấy nước Đồng minh chiến thắng họp ở Vécxây cách thủ đô Pari 14 km, Nguyễn Tất Thành bàn với nhà yêu nước Phan Châu Trinh và luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường viết bản ""Yêu sách của nhân dân An Nam"" gửi Hội nghị Vécxây.Bạn đang xem: Yêu sách của nhân dân an nam
Nhà yêu nước họ Phan trịnh trọng nói:
- Bảy điều yêu sách mà anh Thành nêu ra, theo tôi thật là xác đáng và đúng như bọn mình thường trao đổi với nhau. Chú Trường xem có nên thêm điều gì không?
- Tôi thấy thế là tốt... Thử xem còn vấn đề gì về quyền của nhân dân ta cần đòi...- Văn Trường nói và gõ nhẹ vào trán mình theo thói quen của ông khi cần suy tính một điều gì.
- Thưa hai bác - Tất Thành lên tiếng - Hôm trước cháu phác thảo ra 7 điều yêu sách đưa hai bác xem, nhưng đêm hôm qua cháu mới nảy thêm một ý. Cháu thấy rằng ở Đông Dương, bọn quan lại chỉ dựa vào các sắc lệnh của tên toàn quyền để cai trị dân ta mà không hề có luật. Cháu muốn đưa thêm một điều yêu sách nữa:“Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp”.
- Đúng! Đúng. Luật sư họ Phan sôi nổi hưởng ứng. Muốn cho dân ta có tự do thì phải đòi họ cai trị theo luật pháp!
Tôi cũng tán đồng! Phan Châu Trinh nói như kết luận buổi gặp mặt. Bây giờ ta làm thế nào để chuyển bảnYêu sáchtới Hội nghị Vécxây đây?
Tất Thành:
- Thưa bác, cháu nghĩ rằng phải nhờ bác Phan Văn Trường viết ngay ra bằng tiếng Pháp thì mới kịp.
Hai ngày sau, Nguyễn Tất Thành đã ngồi bên luật sư Phan Văn Trường, trước bản ""Yêu sách của nhân dân An Nam"" vừa thảo xong bằng tiếng Pháp.
- Chúng ta sẽ đứng tên dưới bản yêu sách này như thế nào đây? Bác đứng tên nhé. Nguyễn Tất Thành nêu ý kiến.
- Không! Phan Văn Trường đáp - bảnYêu sáchnày tuy là tôi chấp bút viết ra bằng tiếng Pháp. Nhưng tôi phải viết chỉ vì anh chưa thông thạo Pháp văn mà thôi, chứ sáng kiến lớn lao này là của anh, và hầu hết ý kiến nêu ra trong bảnYêu sáchcũng là của anh.
- Thưa bác, sáng kiến của cháu cũng chỉ là phản ánh nguyện vọng chung của những người yêu nước chứ có phải của riêng cháu đâu. Bác là một nhân vật có danh tiếng, bà con Việt kiều trên đất Pháp đều biết bác là một luật sư yêu nước dám bênh vực công lý, che chở cho bà con. Bác đứng tên cho bản yêu sách này thì giá trị của nó càng cao, ảnh hưởng của nó càng rộng.
- Không! Không thể được! Tôi tuy có chút danh vọng hơn anh ngày nay, nhưng cái tâm, cái chí của anh còn lớn hơn tôi nhiều. Vả lại về nguyên tắc, người trí thức không được phép lấy công người khác làm công của mình: “Cái gì của Xêda thì phải trả lại cho Xêda"".
Đó mới là lẽ phải. Chẳng những tôi không thể đứng tên, mà bác Hy Mã Phan Châu Trinh cũng không nên đứng tên.
Cuộc trao đổi giữa hai nhà yêu nước đi tới kết luận: dùng một cái tên gì tiêu biểu cho nguyện vọng chung của nhân dân, nhưng phải là tên một cá nhân thì tính chất pháp nhân của văn bản mới có giá trị. Cuối cùng anh Nguyễn quyết định tự mình đứng mũi chịu sào với cái tên chung cho tấm lòng của mọi người. Anh ký:
Thay mặt nhómnhững người yêu nước An
Nam
NGUYỄN ÁI QUỐC
Ngay buổi chiều hôm ấy, sau khi bảnYêu sáchđược gửi đi, anh Nguyễn rời khỏi nhà số 6 đường Vila đê Gôbơlanh, nơianh vẫn ở với luật sư Phan Văn Trường. Anh sống bí mật, đề phòng sự truy lùng ráo riết của bọn mật thám Bộ Thuộc địa Pháp.
Vào buổi sáng sớm có người đến bấm chuông căn nhà số 6 phố Đôbinhi. Đây là nhà của Giuyn Cămbông, đại sứ cũ của Pháp ở Đức, hiện là thành viên của đoàn đại biểu Pháp đi dự Hội nghị Vécxây. Giơnơvievơ Tabui, cô cháu gái trẻ của Cămbông ra mở cửa. Sau này cô là một nhà báo nổi tiếng, nhưng lúc bấy giờ cô là thư ký của cậu cô. Người bấm chuông là một thanh niên châu Á, mảnh khảnh, có khuôn mặt cởi mở, dễ mến, đôi mắt to, sáng long lanh. Anh lịch sự chào cô và nói bằng thứ tiếng Pháp không sõi:
- Tôi muốn trao cho ngài đại sứ Cămbông một văn kiện.
Giơnơvievơ mời khách đến sớm vào nhà rồi ra hiệu cho khách ngồi xuống cạnh chiếc bàn dài chạm trổ theo kiểu đế chế. Chiếc bàn này hiện nay vẫn kê trong phòng khách gia đình Tabui. Cô gái hỏi người thanh niên là ai?
- Thưa cô, tôi là Nguyễn Ái Quốc, tôi muốn gặp ngài Cămbông.
Chàng thanh niên lấy ra một cuốn giấy buộc bằng dây mảnh. Anh mở ra và trao cho cô gái.
- Tôi đến đây để trao cho ngài đại sứ “bản trần tình” của nhân dân Đông Dương.
Có thể thấy ngay là những tờ giấy trong cuộn giấy viết bằng một thứ chữ rất đẹp. Tờ đầu tiên là bức thư gửi cho chủ nhà:
""Thưa ngài đại sứ Cămbông, đại điện toàn quyền của nước Pháp tại Hội nghị Vécxây. Tôi là người đại diện cho nhân dân Đông Dương. Chúng tôi là một dân tộc chậm phát triển, chúng tôi đã được biết thế nào là nền văn minh của nước Ngài …"".
Tài liệu mà người thanh niên châu Á mang đến có tên là “Bản Yêu sách của nhân dân An Nam"".BảnYêu sáchviết:
“Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình với các quý Chính phủ trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây:
1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng nhữngđảm bảo về mặt pháp luậtnhư người Âu châu;xóa bỏ hoàn toàncác toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự dobáo chí vàtự dongôn luận;
4. Tự dolậphộivàhội họp;
5 Tự docư trú ở nước ngoàivà tự do xuất dương;
6. Tự dohọctập,thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7 Thay thếchế độra các sắclệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của nguời bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Vài ngày sau, các đoàn đại biểu khác tham gia Hội nghị và nhiều nghị sĩ Pháp cũng nhận được bản yêu sách tương tự như vậy. Kèm theo bản yêu sách có bức thư ngắn:
“Thưa ngài! Nhân dịp chiến thắng của Đồng minh, chúng tôi xin mạn phép gửi để Ngài kèm theo đây bản ghi những yêu sách của nhân dân An Nam. Tin tưởng ở sự độ lượng cao cả của Ngài, chúng tôi mong Ngài ủng hộ bản yêu sách này trước những người có thẩm quyền.
Thay mặt nhóm những người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc”.
Người ta nhiều lần bắt gặp người thanh niên Việt Nam kiên trì này với tập giấy tờ cặp dưới nách tại các hành lang ồn ào, mù mịt khói thuốc của các ban biên tập báo ở Pari, trong các gian phòng chật chội do các công đoàn và đảng Xã hội thuê để tổ chức các cuộc họp và mít tinh.
Lui Ácnu, Trưởng ban Đông Dương của Sở Mật thám Pháp, sau này là Chánh mật thám Pháp ở Đông Dương, nhún vai khi nghe báo cáo về hành động của một người nào đó tên là Nguyễn Ái Quốc và về nội dung một ""tài 1iệu chống Pháp"" đang được người đó phân phát khắp nơi. Do nghề nghiệp đòi hỏi, Ácnu hầu như biết rất rõ mọi người An Nam khả nghi sống ở Pari, được báo cáo tỉ mỉ về bước đi của “những kẻ chủ mưu gây bất an” từ Đông Dương sang. Một trong những người đó là Phan Châu Trinh, mở một hiệu ảnh và thực tế đã ngừng hoạt động chính trị. Vả lại, hành động “khiêu khích"" như vậy vốn không phải là Phan Châu Trinh, vì ông lúc nào cũng có thái độ kính nể nước Pháp. Một người khác là luật sư Phan Văn Trường, cũng sống ở Pari, được coi là nhà mácxít, nhưng chỉ là người dịch sách báo chính trị ra tiếng Việt và không bao giờ tham gia làm những việc như vậy. Chỉ còn một người duy nhất trong số những nhân vật quen biết cũ của Sở Mật thám dám cả gan làm việc này là Phan Bội Châu. Nhưng Ácnu biết chắc chắn Phan Bội Châu đang ở một nơi nào đó tại miền Nam Trung Quốc, hơn nữa, mới đây ông ta có cho đăng một bài báo, lờilẽ rất ôn hoà có lợi cho chủ trương hợp tác Pháp - Việt.
Vào lúc đó, cả Ácnu - kẻ có con mắt cú vọ, nhòm ngó khắp nơi, thậm chí cả những người bạn gần gũi của người yêu nước trẻ tuổi đã cả gan cất lên tiếng nói bảo vệ nhân dân bị áp bức của mình ngay giữa trái tim của bọn đế quốc Pháp cũng không biết được và cũng không thể ngờ rằng, Nguyễn Ái Quốc - tác giả bảnYêu sách,anh Văn Ba - người phụ bếp trên tàu biển, cậu bé ham hiểu biết Nguyễn Tất Thành - người con trai quan Phó bảng duy nhất ở làng Sen, cũng chỉ là một người mà thôi./.

Những chủ trương công tác lớn
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm
Bình luận - Phê phán
Cách đây 100 năm (1919 - 2019), thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành ký tên “Nguyễn Ái Quốc” dưới bức thư kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Tổng thống Mỹ và Trưởng Đoàn đại biểu các nước Đồng Minh thắng trận trong Thế chiến I họp Hội nghị tại Versailles, Pháp1 (sau đây gọi tắt là bản Yêu sách). Bản Yêu sách này, gồm 8 điểm2 được coi là một văn kiện chính trị, pháp lý đầu tiên trong đời sống chính trị của Việt Nam; trong đó, nổi lên hai vấn đề quan trọng nhất: quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ. Bản Yêu sách ra đời đến nay đã 100 năm, nhưng giá trị của nó không bị phai mờ.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ
“Dân tộc” được đề cập ở đây là dân tộc - quốc gia (Nation), chứ không phải dân tộc/bộ tộc/tộc người (Ethnic). Thành phần dự Hội nghị Versailles năm 1919 chủ yếu đại biểu đến từ 27 nước đế quốc trong phe Đồng Minh thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ Nhất (1914 - 1918). Hội nghị bàn nhiều vấn đề, trong đó có việc xác nhận sự thất bại của đế quốc Đức và các đồng minh của nước này; phân chia thị trường thế giới như là chiến lợi phẩm cho các nước đế quốc thắng trận. Một trong những người đồng chủ trì Hội nghị này là Tổng thống Mỹ V.Wilson. Tại Hội nghị, Tổng thống V.Wilson tiếp tục tuyên bố theo tinh thần “Chương trình 14 điểm” đã nêu từ năm 1918 (tâm điểm của Chương trình này là nhằm thiết lập vai trò bá chủ thế giới của Mỹ và chống lại nước Nga Xô viết mới ra đời năm 1917). Tổng thống Mỹ đưa ra những lời rất mỹ miều về quyền dân tộc tự quyết, về quyền dân chủ, … chạm trúng vào tâm lý khát khao nồng cháy đối với những người yêu nước của các dân tộc thuộc địa trên thế giới, trong đó có những người Việt Nam yêu nước đang có mặt tại Pháp năm 1919.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng đối với mỗi dân tộc - quốc gia, bao gồm bốn nội dung làm thành một thể thống nhất của quyền dân tộc cơ bản: (1). Độc lập; (2). Chủ quyền; (3). Thống nhất; (4). Toàn vẹn lãnh thổ. Tất cả các dân tộc - quốc gia trên thế giới, từ cổ chí kim, đều luôn muốn và giữ được quyền này. Đó cũng là điều cơ bản nhất, xuất hiện trong các hiệp định mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia đàm phán và ký kết với các bên liên quan (đơn cử là Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (tháng 7-1954) và Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lâp lại hòa bình ở Việt Nam – Hiệp định Pari, tháng 01-1973).
Tuy nhiên, Bản Yêu sách chỉ là những điều “khiêm tốn”3 đặt trong bối cảnh: “trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự”4. Bởi, chúng ta thấy tuyên bố về quyền dân tộc tự quyết của Tổng thống Mỹ tại Hội nghị Versailles năm 1919 chỉ là trên đầu lưỡi, không có một chút nào về giá trị thực tế. Về sau, trong một loạt bài báo có tên là Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “sau một thời gian nghiên cứu và theo dõi, chúng tôi nhận thấy rằng “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”5.
Đối với quyền tự do, dân chủ, bản Yêu sách bao gồm hai nhóm quyền: (1): Quyền dân chủ trong việc thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Với quyền này, bản Yêu sách đặt ra yêu cầu là việc cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân Việt Nam. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. (2): Quyền tự do của người dân. Bản Yêu sách đề cập việc phải tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. Đòi các quyền tự do báo chí, ngôn luận, lập hội, hội họp, cư trú ở nước ngoài và xuất dương, học tập; thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở các tỉnh cho người bản xứ.
Thật ra, đây chỉ là “những yêu sách khiêm tốn”. Nhưng, cái khiêm tốn (tối thiểu) của những yêu sách đó, đặt trong hoàn cảnh của một dân tộc đang rên xiết dưới chế độ thực dân xâm lược hà khắc thì chúng không còn là khiêm tốn (tối thiểu) nữa mà là ở mức tối đa. Bởi vì dân chủ, tự do ở chế độ thuộc địa nói chung và chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ nói riêng là giá trị quá xa xỉ.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Những nội dung cơ bản của Yêu sách và hành động của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn hợp với lôgíc tư duy và hành động của nhà cách mạng chuyên nghiệp. Cả cuộc đời của Người là đấu tranh cho các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trên con đường đầy gian nan, nguy hiểm ấy, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đem lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân nên đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hiện nay, đất nước Việt Nam đang được hưởng nền hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, dân chủ, văn minh. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực thi quyền dân tộc tự quyết trong một thế giới toàn cầu hóa phức tạp; đồng thời, thực hành quyền dân chủ, tự do ở một đất nước đổi mới vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, vẫn còn một số mặt hạn chế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang cố gắng khắc phục. Đó là lẽ thường của biện chứng cuộc sống, vì không có cái gì trên đời này là tuyệt hảo cả. Cái lý này không chung với những gì mà các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc về tự do, nhân quyền của Việt Nam. Cũng cần khẳng định rằng, một sự vật dẫu có xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ,… bằng những thủ đoạn tinh vi, phương tiện tân kỳ đến đấu, thì nó vẫn luôn giữ nguyên bản chất.
Khi Việt Nam đã thiết lập chế độ chính trị mới do thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), vấn đề quan tâm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Nhà nước ta là thiết lập và thực thi những quyền tự do, dân chủ thật sự của người dân. Trước hết, các quyền đó phải được bảo đảm trong Hiến pháp - bộ luật cơ bản nhất của một quốc gia. Điều này cũng được thể hiện bằng những chính sách cụ thể và chất lượng hoạt động của bộ máy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cả hệ thống chính trị. Tinh thần cơ bản nhất trong cấu tạo quyền lực của đất nước là: tất cả mọi quyền lực và quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Đó là dân chủ theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh: dân là chủ và dân làm chủ, chứ không phải “quan chủ”. Dân là chủ tức là nói về vị thế của dân. Dân làm chủ là nói về trách nhiệm của dân. Đó là quan điểm: Đảng từ trong xã hội mà ra chứ không phải từ trên trời sa xuống, nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho đồng bào sung sướng; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển không phải vì mục đích tự thân mà là vì độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng, mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không, quần chúng sẽ đá đít”6. Người khẳng định: “tiếng dân chính là truyền lại ý trời”7; “người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”8 và người cách mạng phải là người phục vụ nhân dân: “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”9.
Quan điểm thực tiễn của Nhà văn hóa dân chủ Hồ Chí Minh là: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”10. Cán bộ Nhà nước phải: “làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu” và “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”11. Đồng thời, phải “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”12, “Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”13; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”14.
Hiện nay, Việt Nam đang thực thi những quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ trong điều kiện mới - Đảng Cộng sản cầm quyền - quyền này không phải cứ tự nhận mà được, mà do nhân dân ủy thác cho. Những điều về quyền dân tộc tự quyết cũng như quyền tự do, dân chủ mà nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp năm 1919 nêu lên, rõ ràng là có biểu đạt giống nhau ở câu chữ nhưng đặt chúng vào hoàn cảnh rất khác nhau. Khác thì khác, nhưng những giá trị chung vẫn còn nguyên đó. Do thế, hiểu về chúng trong điều kiện hiện nay chắc chắn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Đó là lẽ thường. Nhưng, sẽ không là lẽ thường, khi có những kẻ cứ cố tình hiểu sai, xuyên tạc tình hình tự do, dân chủ của Việt Nam. Đây là những người có cái tâm đen, chống đối sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Tự do là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu, tức là nhận thức được và làm theo đúng quy luật khách quan. Không như thế thì không có tự do đích thực. Tự do đi liền với kỷ cương, pháp luật. Vậy, một loạt quyền tự do nêu trong Yêu sách năm 1919 và hiện nay cần được hiểu như thế nào? Từ bản Hiến pháp (năm 1946) đến bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) đã quy định rõ những quyền về tự do báo chí, tự do lập hội, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng,... cho tổ chức, cá nhân. Trong thực tế, nhiều quyền tự do đang được thực hiện và tiếp tục cụ thể hóa trong chế định của luật pháp. Tuy nhiên, có thể ở chỗ này, chỗ nọ, tổ chức, cá nhân này, tổ chức, cá nhân nọ vi phạm quyền tự do, dân chủ thì đó là những sai phạm cụ thể cần khắc phục, nhưng đó nhất quyết không phải bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã diễn đạt về tự do trong lý lẽ khó ai bắt bẻ được, đó là: tự do bày tỏ ý kiến, tự do thảo luận để tìm ra chân lý, khi đã đạt được đến mức tìm thấy giá trị ấy rồi thì quyền tự do hóa ra quyền phục tùng chân lý, mà chân lý là những gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Chúng ta có thể hiểu rằng, tự do như vậy hoàn toàn và tuyệt nhiên không có chỗ đứng cho những suy nghĩ và hành động kích động bạo lực, phản văn hóa, hy sinh chủ quyền quốc gia, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lật đổ chế độ chính trị nước nhà.
Nhân loại đang ở vào thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (4.0). Đó là điều tuyệt diệu. Nhưng, sự tuyệt diệu này phải dành cho thế giới thiện lương. Đáng tiếc, có nhiều kẻ bất lương đang lợi dụng những thành tựu của thời đại này để mưu tính cho những điều xấu xa, họ tìm mọi cách mượn tự do, dân chủ nhằm làm hỏng giá trị tự do, dân chủ đích thực. Hằng ngày, trên các phương tiện media, trên mạng internet, các thế lực xấu xa này tác oai tác quái, đánh lừa những người thiện lương, nhẹ dạ cả tin nghe theo những lời kích động, dối trá. Đáng chú ý là, những kẻ bất lương kiểu này ở trong nước được sự hậu thuẫn từ các thế lực phản động ở bên ngoài. Vì thế, ngăn chặn, đấu tranh, loại trừ những kẻ bất lương ấy cũng chính là nhằm xây dựng, bảo vệ, phát triển quyền dân tộc tự quyết, tự do dân chủ mà nhân dân ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Đó là trách nhiệm chính trị, dân chủ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị cũng như những người thiện lương, trước hết là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân.
Những giá trị quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ của Nguyễn Ái Quốc kể từ khi bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles năm 1919 đến nay đã xuyên qua 100 năm. Hành trình ấy chưa dừng lại và sẽ mở ra sự thăng tiến, bồi đắp giá trị quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do, dân chủ trong thời kỳ mới. Làm phong phú thêm những giá trị quyền dân tộc - quốc gia tự quyết, giá trị quyền tự do, dân chủ trong tình hình hiện nay là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và những người Việt Nam yêu nước; đồng thời, nó phải đi liền với cuộc đấu tranh với các thế lực xấu xa lúc nào cũng tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
MẠCH QUANG THẮNG
_____________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 469 - 471.
Xem thêm: Top các hãng quần jean nổi tiếng nhất thế giới, các thương hiệu quần jean nổi tiếng trên thế giới
2 - (1). Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; (2). Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; (3). Tự do ngôn luận và tự do báo chí; (4). Tự do lập hội và hội họp; (5). Tự do cứ trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; (6). Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; (7). Thay thế chế độ ra sức lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; (8). Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.