Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những hiện tượng đặc biệt của nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp của mình, bà đã để lại cho nền văn học rất nhiều tác phẩm hay, có giá trị. Trong bài viết này hãy cùng chúng tôi điểm qua những bài thơ của Hồ Xuân Hương hay, nổi tiếng nhất bạn nhé.
Bạn đang xem: Tác phẩm của hồ xuân hương
Đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương
Cuộc đời của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn là dấu chấm hỏi rất lớn cho giới nghiên cứu. Bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân di mặc (佳人遺墨) của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916. Hồ Xuân Hương sinh năm 1772, mất năm 1822. Tuy nhiên thông tin này hiện nay vẫn còn nhận được nhiều tranh cãi của giới học giả.
Năm 2021, bà cùng Nguyễn Đình Chiểu là hai nhà thơ của Việt Nam được UNESCO vinh danh là "danh nhân văn hóa thế giới" cùng với kỷ niệm năm sinh/năm mất. Di tác của bà hoàn toàn là thơ và đa số đều được viết bằng chữ Nôm, chính vì thế bà còn được mệnh danh là "Bà Chúa thơ Nôm".
Hầu hết các tác phẩm của Hồ Xuân Hương đều theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại bà đang sống.
Những bài thơ của Hồ Xuân Hương hay, nổi tiếng nhất
Sau đây là những bài thơ của Hồ Xuân Hương hay, nổi tiếng nhất để bạn tham khảo:
1. Bánh trôi nước
Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước non.Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Đây là một bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương nói về người phụ nữ. Bà đã khéo léo mượn hình ảnh của bánh trôi nước - loại bánh quen thuộc để khắc họa hình ảnh, cuộc đời của những người phụ nữ.
2. Vịnh cái quạt
Một lỗ xâu xâu mới cũng vừa
Duyên em dính dán tự ngàn xưa
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng:“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
Đây có thể là một trong những tác phẩm của nữ thi sĩ nói về thân phận người phụ nữ. Cũng có thể chỉ đơn giản bà đang miêu tả chiếc quạt mà thôi. Thơ của bà vốn có nhiều hàm ý, nhiều tầng ý nghĩa vậy nên nếu không chắc chắn được hàm ý của bà thì hãy cảm nhận nó bằng chính cảm nhận của mỗi người.
3. Thơ tự tình
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau hận vì duyên để mõm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom.
4. Vấn nguyệt
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ sao soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng mấy nước non?
5. Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.
6. Động Hương tích
Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.Người quen cõi Phật chen chân xọc,Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,Con thuyền vô trạo cúi lom khom.Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,Rõ khéo trời già đến dở dom.
7. Họa Nhân
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
8. Đá Ông Bà Chồng
Khéo khéo bày trò tạo hoá công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
9. Hỏi Trăng
Một trái trăng thu chín mõm mòm,Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
10. Duyên Kỳ Ngộ
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.Tấc gang tay họa thơ không dứt,Gần gụi cung dương lá vẫn lành.Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.Tuy không thả lá trôi dòng ngự.
11. Đánh Đu
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,Hai hàng chân ngọc duỗi song song.Chơi xuân có biết xuân chăng tá. Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
12. Lấy Chồng Chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong.
13. Mời Trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
14. Ốc Nhồi
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi,Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
15. Canh Khuya
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Trên đây là những bài thơ của Hồ Xuân Hương hay, nổi tiếng nhất mà chúng tôi muốn chia sẻ đến bạn. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết.
GIỚI THIỆULĨNH VỰC HOẠT ĐỘNGVăn Hóa & Sự KiệnDự Án Di Sản
Bất Động Sản
Du Lịch
Công Nghệ
TUYỂN DỤNG
Hồ Xuân Hương – một tài năng văn học độc đáo
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, được biết đến như “Bà chúa thơ Nôm”. Thơ Hồ Xuân Hương là biểu hiện của sự vận động, lạc quan.
Với tư tưởng mới mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền từ quá khứ đến hiện tại. Các tác phẩm thơ của bà cũng mang nhiều nội dung về bình đẳng giới, đấu tranh cho việc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam.
Trong gia tài thi ca của Hồ Xuân Hương cũng như trong thi đàn văn chương thời ấy, cách đây hơn 200 năm dưới chế độ phong kiến, chỉ có bà là nhà thơ nữ Việt Nam, người đầu tiên dám lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ cho nữ quyền qua tác phẩm thi ca. Những kiệt tác của bà để lại không chỉ được tôn vinh trong nước, mà có tầm ảnh hưởng thế giới, đến nay có hơn 10 quốc gia đã dịch và giới thiệu thơ của Hồ Xuân Hương.
Với nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm, thì đó là nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”. Ông khẳng định Hồ Xuân Hương là một nhà viết thơ Nôm thuần túy, thoát hẳn ảnh hưởng của thơ văn chữ Hán, với cách tả tình, tả cảnh, dùng ngữ hiệp vần rất khéo. Thời ấy, người ta còn chưa phát hiện ra Lưu hương ký.
Bà không chỉ được đánh giá cao ở trong nước. Chính sự đánh giá cao của nhiều người nước ngoài càng làm chúng ta thêm tự tin. R. Tago trước kia và sau này là nhà thơ Pháp có tên tuổi ở châu Âu – Jăng Rixtal – trong bài Tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp, đã coi Hồ Xuân Hương là “một trong những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng đầu của châu Á”.
Mặc dù được nhân dân tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”, nhưng đã 250 năm, kể từ ngày sinh và 200 năm ngày mất của Hồ Xuân Hương, nhưng công trình nghiên cứu khoa học về thân thế của bà lại quá ít.
Xưa nay, người ta thuộc thơ Hồ Xuân Hương, biết chuyện tình của nữ sĩ qua bài thơ Khóc Tổng Cóc “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!/Thiếp bén duyên chàng có thế thôi/Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé/Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi” và bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường “Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi/Cái nợ ba sinh đã trả rồi/Chôn chặt văn chương ba tấc đất/Tung hê hồ phỉ bốn phương trời/ Cán cân tạo hóa rới đâu mất/ miện túi càn khôn khép lại rồi/ Hai bảy tháng trời đà mấy chốc/ Trăm năm ông phủ Vĩnh
Tường ôi”… Còn cuộc đời của Hồ Xuân Hương ra sao, đã trải qua những nỗi bất hạnh nào để có duyên thơ, thì đến nay vẫn là huyền bí.
Xem thêm: Cách làm thịt bò ngâm xì dầu, bắp bò ngâm xì dầu đậm đà hấp dẫn, ăn là thích
Sách Giai nhân di mặc (tác giả Nguyễn Hữu Tiến) viết Hồ Xuân Hương là con của cụ tú tài Hồ Phi Diễn (người Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An) với người vợ thứ; được sinh ra tại phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (gần Hồ Tây hiện nay). Còn theo học giả Trần Thanh Mại, cha của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh (cũng người Nghệ An) với người vợ lẽ là Hà Thị.