Thạch Lam là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Tác phẩm của ông mang một phong cách đặc biệt, thể hiện tài năng, sở trường sáng tạo nghệ thuật độc đáo.


Truyện ngắn Thạch Lam không hấp dẫn bạn đọc bằng những chi tiết xung đột gay cấn, mà gây xúc động độc giả bằng lối kể chuyện tâm tình, tâm sự về những cảnh đời, cảnh sống tối tăm, tù túng, tội nghiệp. Sau đây, Download.vn xin giới thiệu đến các bạn độc giả 33 truyện ngắn của Thạch Lam được chúng tôi tổng hợp chi tiết, chính xác và đăng tải ngay sau đây. Mời các bạn tham khảo.

Bạn đang xem: Các tác phẩm của thạch lam

Tổng hợp nội dung truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam

Duyên số
Hai lần chết
Một cơn giận
Một đời người
Người bạn trẻ
Người lính cũ
Nhà mẹ Lê
Tiếng chim kêu
Tiếng sáo
Trở về
Bắt đầu
Bên kia sông
Bóng người xưa
Buổi sớm
Cái chân què
Cô áo lụa hồng
Cô hàng xén
Dưới bóng hoàng lan
Đói
Đứa con
Đứa con đầu lòng
Gió lạnh đầu mùa
Kẻ bại trận
Đêm sáng trăng
Nắng trong vườn
Cuốn sách bỏ quên
Hai đứa trẻ
Người đầm
Trong bóng tối buổi chiều
Những ngày mới
Tối ba mươi
Tình xưa
Sợi tóc
Người bạn cũ

Duyên số

Ăn cơm xong, chúng tôi bắc ghế ngồi trong vườn. Anh Vân, chủ nhà, đang loay hoay pha mấy chén cà phê, mùi thơm phảng phất bốc trong không khí yên lặng.

Đã hai năm nay anh Bình và tôi mới lại gặp Vân.

Ba chúng tôi là bạn bè rất thân mật. Nhân nói tới việc anh Vân mới cưới vợ, câu chuyện cứ quanh quẩn về việc vợ con và lập gia đình.

Bình nói:

- Tôi chỉ ước sao được một người vợ tuyệt đẹp thế là đủ.

Tôi tiếp:

- Tôi cũng ước như vậy.

Vân đáp:

- Người đẹp thì vẫn hay lắm. Nhưng tôi thì tôi cho việc vợ chồng chẳng qua là duyên số.

Chúng tôi phì cười:

- Anh này bây giờ thành ông thầy tướng chắc! Duyên số là cái quái gì mới được chứ?

- Là một sự bí mật không ai hiểu, mà chính tôi cũng không hiểu. Các anh hãy lặng yên để tôi kể câu chuyện của tôi cho mà nghe.

Nói xong, Vân điềm nhiên, thong thả châm điếu thuốc hút, rồi thong thả kể như một ông cụ:

- Chắc các anh cũng rõ, trước kia, tôi cũng lãng mạn như những người trẻ tuổi khác. Nghĩa là bình sinh chỉ ao ước được một người tuyệt thế giai nhân, như Tây Thi chẳng hạn để sánh vai, kề gối thì mới mãn nguyện. Mà việc ấy riêng đối với tôi thì lại có thể dễ dàng lắm, vì nhà tôi giàu, mẹ tôi lại chiều chuộng. Chỉ còn việc đi tìm người đẹp nữa là xong. Tôi bèn đi khắp thành phố Hà Nội, trong lòng tâm tâm niệm niệm sẽ tìm được con người trong lý tưởng.


Một hôm trong hội chợ tôi vào xem một gian hàng thêu. Lúc quay ra gặp ngay một bà cụ già tóc bạc phơ, với lại, đứng đằng sau... một cô gái.

Thoạt mới nhìn đôi mắt cô ta, tôi choáng váng như người nhắp cốc rượu mạnh. Thế rồi tôi yêu cô ta ngay, yêu tha thiết, yêu say đắm, không biết thế nào mà tả được. Tôi không biết rõ mặt mũi cô ta ra sao nữa, vì mỗi lần nhìn thì lại bị đôi mắt đen huyền ảo của cô ta làm choáng váng. Nhưng điều tôi chắc chắn, là cô ta rất đẹp. Ở hội chợ ra, tôi cứ theo riết cô ta và bà cụ về đến tận nhà, và sau khi đi đi lại lại trước nhà cô ta cho mãi đến 9 giờ tối, tôi mới chịu bỏ ra về.

Từ đấy, không ngày nào là tôi không đến đứng ở đầu phố hay qua nhà cô ta để mong được gặp mặt. Có khi đứng yên lặng hàng nửa giờ dưới mưa gió, tôi vẫn kiên gan không hề phàn nàn, chỉ mong nhìn mặt cô ta một lần cho đỡ nhớ. Bây giờ nghĩ lại độ ấy thật gian nan khó nhoc hơn một người đi lính.

Tuy vậy mà ba tháng đã trôi qua, tôi vẫn chưa tìm được cách nào để tỏ cho cô ta biết rằng tôi yêu cô ta, mà tôi cũng chưa rõ cô ta có để ý đến tôi không.

Trong lúc tôi đang mê mải về cô thiếu nữ ấy, một hôm mẹ tôi gọi đến bảo:

- Anh đã muốn lấy vợ chưa?


- Con ấy à? Rất sẳn lòng.

- Thế thì hay lắm. Tôi đã tìm được cho anh một chỗ rất môn đăng hộ đối, mà nhà lại giàu. Bà cụ là bạn cũ của tôi, còn cô ta...

Tôi không để cho mẹ tôi nói hết:

- Mẹ cứ để con chọn lấy, không cần gì giàu nghèo hay sang trọng, miễn là người ý hợp tâm đầu với con là được rồi.

- Nhưng anh có biết mặt cô này đâu. Cô ta ngoan ngoãn, có vốn liếng, mà cũng xinh đẹp.

Tôi nghĩ đến cái nhan sắc lộng lẫy của người vẫn mơ tưởng, nên không thiết gì bàn luận nữa. Mẹ tôi cũng chiều tôi không ép, nhưng còn tiếc:

- Không đám nào hơn đám này đâu, anh ạ. Nếu anh bằng lòng thì được ngay.

Tôi đâm gắt:

........................

Hai lần chết

Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con đủ ăn, và hai con trai được đi học. Sau Dung lại còn con bé út nữa, nên cảnh nhà càng thêm túng bấn.

Khi sinh ra Dung, mẹ nàng vì bận buôn bán, giao phó nàng cho người u già trông nom. Người u già này ở nhà Dung đã lâu lắm, đã nuôi và săn sóc tất cả anh chị Dung từ lúc bé. Nhưng, không biết vì có phải thấy Dung ra đời trong sự lãnh đạm, mà u già đem bụng thương yêu Dung chăng. U săn sóc, bế ẵm nàng, và chăm chút nàng quý như con đẻ vậy, tuy Dung lúc bé ốm yếu khó nuôi và lại ghẻ lở bẩn thỉu nữa.

Cha Dung chẳng làm gì cả. Từ xưa đến nay vẫn thế. Hình như ông ta sinh ra đời là chỉ để ngồi ở nhà cho lúc nào cũng có người và để những ngày giỗ tết trong họ, khăn áo chỉnh tề đi ăn cỗ mà thôi. Không ai thấy ông ta làm một việc gì, mà cũng không ai nghĩ đến sự ông ta phải làm một việc gì.


Ông lúc nào cũng ngồi rung đùi bên cạnh cái điếu ống mà ông sửa chữa rất kêu, thỉnh thoảng hút một điếu, rồi lại trầm ngâm như đang nghĩ ngợi một sự gì quan trọng. Những lúc ấy u già biết là ông chẳng nghĩ sự gì quan trọng cả, bèn đem Dung đến cho ông bế. Ông giơ hai tay ẵm Dung vào lòng, hôn hít, rồi xốc Dung lên trên đùi, ngoáy bụng cho nó cười, rồi lại trịnh trọng đưa trả u già. Xong, Ông lại ngồi nghĩ ngợi.

Có lẽ ông nghĩ tình cảnh nhà ông, hồi còn ông cụ đi làm việc quan, rất giàu có và hách dịch suốt một vùng này. Từ khi cụ cố mất đi, cơ nghiệp ăn tiêu dần, cảnh nhà thành ra sa sút, chỉ còn cái danh không.

Cha mẹ Dung cũng không nghĩ đến sự bắt nàng đi học như anh chị nàng, có lẽ vì nghĩ rằng lo cho hai người cũng đã đủ.

Dung càng lớn càng gầy gò đi. Suốt ngày nàng chỉ chạy đánh khăng đánh đáo với lũ trẻ con nhà "hạ lưu" cha nàng gọi thế những người nghèo khổ trú ngụ ở chung quanh xóm chợ. Nhiều khi đi đâu về trông thấy, cha nàng gọi về, đánh cho mấy roi mây và cấm từ đấy không được chơi với lũ trẻ ấy. Những trận đòn xong, Dung lại mon men chơi với lũ trẻ, và thấy hình như cha nàng cũng chỉ cấm lấy lệ chứ không thiết gì đến, nàng lại vững tâm nhập vào bọn hạ lưu đó, suốt ngày dông dài ở ngoài chợ.

Một đôi khi, mẹ nàng kịp về đến nhà trông thấy nàng quần áo lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm, bùn, chỉ chép miệng thở dài nói:

- Con này rồi sau đến hỏng mất thôi.

Rồi bà lại quay đi buôn bán như thường, sau khi đã để lại cho chồng một món tiền tiêu pha trong nhà, và sau khi anh chị Dung mỗi người đã nũng nịu đòi được một hào để ăn quà.

Dung thấy thế cũng chẳng ganh tị, vì nàng xưa nay đối với các anh chị cũng không thân thiết lắm. Những khi nàng đang chơi thấy đói, nàng lại chạy về xin u già bát cơm nguội hay thức ăn gì khác thế nào u già cũng đã để phần rồi chạy nhảy như một con vật non không biết lo nghĩ gì.

Những sự ấy đã làm cho Dung có một cái tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Ngày trong nhà có tết nhất, các anh chị và em nàng được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ta thán hay kêu ca gì. Mà nàng biết kêu ca cũng không được. Nhiều lần nàng đã nghe thấy u già nói mẹ nàng may cho cái áo, thì mẹ nàng trả lời:


- May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách nát ra à?

Còn nói với cha thì Dung biết là vô công hiệu, vì cha nàng không dám tự ý làm cái gì bao giờ cả.

Cuộc đời cứ đi như thế trong cái xó chợ cỏn con ấy. Thấm thoát Dung đã mười bốn tuổi, nhưng ai cũng tưởng là hãy còn trẻ con, mà tính tình nàng như đứa trẻ con thật. U già đã có khi phải gắt lên với nàng:

- Bây giờ cô phải đứng đắn lên một tí chứ. Nhiều tuổi rồi còn gì nữa.

Dung ngây thơ hỏi:

- Đứng đắn là thế nào cơ, u?

- Đứng đắn là đứng đắn chứ còn thế nào nữa, cô hỏi lẩn thẩn lắm. Cô không có vẻ người lớn một tí nào cả.

- Ừ, thì tôi không người lớn. Nhưng không người nhớn thì làm sao hở u?

U già vác quạt đánh, Dung chạy lại ôm lấy, rồi âu yếm ghé tai u già nói khẽ:

- Tôi có người lớn, cậu mợ cũng không yêu hơn cơ mà.

Thế là hai u cháu lại lặng yên không nói gì nữa.

Một hôm mẹ Dung đưa một bà ở trên tỉnh về chơi. Thấy người lạ, nhất là cách ăn mặc thị thành của bà khách. Dung cứ đứng dán mắt lên nhìn. Mà lạ thay, lần này Dung không thấy mẹ quát mắng bảo lui đi như mọi bận có khách khác. Mà bà khách lạ cũng chăm chú nhìn Dung từ đầu đến chân, lại hỏi han Dung nữa.

Sau hai bà thì thầm với nhau mãi. Mẹ Dung mời bà khách ở lại ăn cơm, rồi thân hành tiễn bà ra ga. Bẵng được ít lâu, một hôm mẹ Dung bổ hàng về, gọi Dung lại gần, lấy ra một gói bọc giấy mà bảo:

............................

Cái chân què

Cuộc đời có nhiều cái chế riễu đắng cay và đau đớn làm cho chúng ta đột nhiên hiểu cái ý nghĩa chua chát và sâu xa. Tôi sẽ kể câu chuyện dưới đây làm chứng cho sự ấy.

Tôi có một người bạn tên là Minh. Anh ta là một thiếu niên linh lợi, đảm đang và rất có nghị lực. Nhà anh vốn nghèo. Cũng vì cái nghèo ấy, mà từ thuở nhỏ, anh Minh đã phải chịu bao nhiêu nỗi khổ sở, thiếu thốn, không kể những nỗi bị ức hiếp mà những người nghèo ở thời nào cũng phải chịu. Vì vậy, khi lớn lên, Minh chỉ có một chủ đích: làm giàu. Anh ta vẫn thường nói với tôi: "Đời bây giờ, chỉ có một sức mạnh, là đồng tiền. Nếu anh có tiền, anh làm gì cũng được". Tôi mỉm cười hoài nghi trả lời rằng sự đó không chắc lắm, rằng tuy đồng tiền là một sức mạnh đáng quý thật vì ai dám chê bai nó? Nhưng không phải là mục đích cốt yếu ở đời vì đồng tiền không đem lại cho ta sự sung sướng bao giờ cả. Minh nhún vai, cho tôi là một anh thi sĩ viển vông, chỉ biết mơ màng hão mà không biết đến những sự thiết thực khác cần hơn nữa.

Nhưng anh Minh hình như bị cái không may nó ám ảnh. Những công việc anh hăng hái làm đều bị thất bại cả. Những lúc anh tưởng được thành công, tưởng sẽ nắm trong tay được món tiền, thì lại là những lúc anh sắp được tin công việc hỏng. Cái không may ấy làm cho anh trở nên một người tấm tức, và ngày càng đồng tiền lại càng là cái ám ảnh độc nhất của trí não anh, cho đến một ngày cái không may lớn lên nữa đến làm anh khổ sở.


Hôm ấy, anh ta đương đi trong phố thì bị một cái ô tô tự nhiên bỏ đường nhảy lên hè cán phải. Minh chỉ kịp thoáng nghĩ đến cái sự không may ấy nữa, rồi anh ta đau quá ngất đi.

Khi tỉnh dậy, Minh thấy mình nằm trên một chiếc giường trong nhà thương. Anh chỉ mang máng nhớ lại hình như sau tai nạn, họ có mang anh lên bàn mổ, vì lúc bấy giờ anh thoáng ngửi thấy mùi thuốc mê. Nhưng rồi sau Minh mê đi không biết gì nữa.

Anh khe khẽ cử động chân tay, thì biết chân bên phải như bị tê liệt. Chợt nghĩ đến sự cưa chân, Minh toát mồ hôi trán, quả tim đập mạnh.

Vừa lúc ấy, một người khán hộ bước vào phòng, tay cầm một chai thuốc. Cái câu Minh muốn hỏi người này, không ra khỏi được miệng anh ta. Minh sợ sự thực, sợ cái đã rồi, không bao giờ chữa được... Nhưng anh muốn biết.

Người khán hộ đặt chai thuốc lên bàn, nói vơi Minh:

- Cứ hai giờ ông lại uống một thìa. Đây là thuốc cầm máu.

Minh hỏi lảng:

- Tôi ngất đi có lâu không, ông?

- Lúc mang vào đây thì ông mê man không biết gì cả. Có lúc lên bàn mổ thì ông hơi tỉnh lại một chút. Nhưng mà lại bị đánh thuốc mê ngay. Minh hồi hộp đưa lưỡi liếm đôi môi khô ráo, ấp úng hỏi:

- Thế... thế... mổ có... lâu không?

Thầy khán hộ không phải là người biết tâm lý. Thầy ta đáng lẽ phải trông thấy đôi mắt của Minh sáng lên, và cái vẻ lo sợ của Minh hiện ra trên nét mặt. Thầy ta trả lời:

........................

Cuốn sách bỏ quên

Thành đi lại trên sân ga, thong thả và lơ đãng. Gió mạnh dán chặt quần áo vào người chàng, khiến cái lạnh thêm thấm thía và ẩm ướt. Tuy trời không mưa, nhưng Thành tựa như thấy trong lòng mưa bụi, buồn rầu và chán nản, một mối buồn không sâu sắc, nhưng êm êm làm tê liệt cả tâm hồn.

Chàng không muốn nhớ lại, hình như muốn để quên đi với nỗi thất vọng ấy. Câu trả lời của ông Xuân, nhà xuất bản, vẫn nhắc lại bên tai Thành một nhịp trầm và khó chịu:

- Sách của ông không được ai hoan nghênh cả.

Thành mím môi lại, giữ vẻ tự nhiên, điềm đạm như người đã thường nghĩ đến điều ấy rồi. Chàng để tay lên bản thảo cuốn "Mơ xưa", vuốt cong đầu giấy lại, không trả lời. Ông Xuân nói tiếp:

- Thật vậy. Hai nghìn cuốn "Người bạn" in ra mà bây giờ chưa bán được hai trăm. ấy là không kể gửi đi biếu các báo đã mất non dăm chục rồi. Tôi chưa in ra cuốn sách nào khó bán như thế.

Ông chép miệng nhìn Thành, có ý bảo chàng hiểu rằng cái vốn hai trăm bạc ông bỏ ra chưa thâu được hết. Tuy vậy, Thành cứ cố; chàng run run tay cầm bản thảo cuốn "Mơ xưa" lên; xốc lại hai đầu định sắp sửa cho vào cặp, khẽ hỏi:

- Thế còn cuốn này, ông...

Câu trả lời đón trước đến ngay, quả quyết không có gì lay chuyển nổi:

- ồ, ông còn định xuất bản quyển này nữa hay sao? Tôi xin chịu, ông có các vàng tôi cũng không dám in ra nữa.

Thành không hiểu tại sao chàng lại mỉm cười tuy chàng không muốn. Chính chàng cũng khó mà nói rõ được cái ý nghĩa của cái cười đó. Chàng cầm mũ với cặp, đứng dậy, nắm cái bàn tay mềm và uể oải của ông chủ rồi đi ra.

Đến ngoài đường, lúc bấy giờ Thành mới nhận thấy nỗi thất vọng của mình, và để nó tràn lên cả tâm hồn, không chống cự. Chàng có cái cảm giác bị hụt chân chết ngập trong mối buồn và thấy một nỗi thương thấm thía vô hạn cho chính mình.

Trong những đêm không ngủ ở nhà quê, chàng vẫn mơ tưởng một sự thành công rực rỡ xứng đáng với tài năng. Những lúc đó, Thành sung sướng như nhấp chén rượu mạnh mà hơi men làm say sưa dần dần. Chàng tưởng sách của chàng đã được thiên hạ hoan nghênh nhiệt liệt, các báo đua nhau tán thưởng, và bán chạy hết ngay trong tháng xuất bản. Ông Xuân sẽ để một tập bạc trên bàn, tiếp chàng niềm nở và nói nịnh:

- Sách của ông bán chạy quá. Thật, tôi chưa từng thấy nhà văn nào được hoan nghênh như ông.

Thành sẽ cười nhã nhặn và kín đáo, nhận lời khen ấy như một người không quan tâm đến sự nhỏ mọn về danh vọng ấy. Chàng sẽ đưa trình cuốn "Mơ xưa", sẽ được ông Xuân trân trọng đỡ lấy và vui vẻ nhận xuất bản ngay.

Nhưng sự thực... Môi Thành sẽ nhếch hơi chua chát, và chàng tự hỏi không biết có nên chế giễu mình không. Chàng không nghĩ đến đi chơi trong Hà Nội nữa, thuê ngay xe ra ga lấy vé. Thành muốn rời bỏ ngay cái tỉnh lãnh đạm này, mong lại thấy căn phòng nhỏ ấm áp của chàng, cái bàn viết có bóng cây trong vườn lung lay trên mặt, mỗi khi ánh nắng chiếu ngang.

Thành ngửng nhìn đồng hồ: ba giờ... chuyến tàu dễ không bao giờ đến chắc! Con đường sắt về Nam song song thẳng tắp dưới trời u ám, như làm xa vắng rộng rãi thêm nỗi buồn. Tất cả những mơ ước tha thiết của tuổi trẻ, của tâm hồn nghệ sĩ, những mộng đẹp xây lên trong lúc say văn, tất cả đều theo gió lạnh tan dần. Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng thấp mà lúa đã gặt rồi.

Khi tàu đến, chàng chỉ còn là một kẻ chán nản bước lên xe. Chàng đi xuống hạng ba, mở cửa toa bước vào. Thành dễ chịu khi thấy trong toa vắng không có ai, ngoài một người gác tàu ngồi thu hình trong một xó, không buồn ngửng lên trong khi chàng đi qua. Thành cũng gieo mình trên chiếc ghế, kéo cổ áo lên che gáy - cái lạnh thấm thía quá! - rồi lặng yên để cho tiếng rộn rịp của chuyến tàu ru mình.

................................

Hai đứa trẻ

Tiếng trống thu không<1> trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

- Em thắp đèn lên chị Liên nhé?

Nghe tiếng An, Liên đứng dậy trả lời:

- Hẵng thong thả một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị kẻo trong muỗi.

An bỏ bao diêm xuống bàn cùng chị ra ngoài chỏng ngồi; chiếc chỏng nan lún xuống và kêu cót két.

- Cái chỏng này sắp gãy rồi chị nhỉ?

- Ừ để rồi chị bảo mẹ mua cái khác thay vào.

Hai chị em gượng nhẹ ngồi yên nhìn ra phố. Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách...

Những nguồn ánh sáng đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hònđá nhỏ một bên sáng một bên tối.

Chợ họp giữa phố văn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đ̣n gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.

Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngơ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chỏng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa hàng của chị.

- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?

Chị Tí để chỏng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời Liên:

- Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.

Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Để bán cho ai? Mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ<2> trong huyện hay người nhà thầy thừa<3> đi gọi chân tổ tôm, cao hứng vào hàng chị uống bát nước chè tươi và hút điếu thuốc lào. Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm.

Chị kê xong chỏng ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kì lại để ngồi têm trầu, còn thằng cu thì loay hoay nhóm lửa để nấu nồi nước chè. Lúc bấy giờ chị mới ngẩng lên nói chuyện với Liên:

- Còn cô chưa dọn hàng à?

Liên giật mình, kêu khẽ: Chết chửa! Rồi đứng dậy giục em:

- Vào đóng cửa hàng thôi, không mẹ mắng chết.

An đáp:

- Hôm nay chưa chắc mẹ có ra không, chị ạ. Mẹ còn bận làm gạo cơ mà.

Ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên tạt ra thăm hàng một lần, và bà dặn hễ cứ trống thu không là phải đóng cửa hàng lại. Thế mà Liên mải ngồi nhìn phố quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn, xếp những quả<4> sơn đen lại, trong lúc An đi tìm then để cài cửa cho chắc chắn. Cái cửa hàng hai chị em trông coi - là một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc. Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình<5>. Mẹ Liên giao cho Liên trông coi - bà còn bận làm hàng xáo<6> - và buổi tối thì hai chị em cùng ngủ đây để trông hàng.

Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm các bánh xà phòng còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng. Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì.

- Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không?

An ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Vâng, bà ta mua hai bánh, còn cụ Chi lấy chịu nửa bánh nữa.

Liên với cái bàn tính để cộng số tiền. Nhưng trong hàng nóng và muỗi quá, chị ngần ngại rồi xếp hết cả tiền vào tráp không tính nữa:

- Thôi, để mai tính một thể.

An nhìn chị, chỉ đợi lúc ấy. Hai chị em cùng vội muốn đóng cửa hàng để lại ra ngoài kia, ngồi trên chỏng ngắm nhìn phong cảnh ngoài phố. Liên khóa vội tráp tiền với

một chiếc chìa khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc<7> ở thắt lưng, chiếc xà tích và cái khóa chị quý mến và hãnh diện, vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang.

..........................

Tất cả nội dung truyện ngắn trên đây đều có trong file tải, mời các bạn Download Truyện ngắn Nam Cao để xem chi tiết.

Thạch Lam thuộc trong số những thành viên trụ cột của Tự lực văn đoàn. Là người ý thức rất sâu sắc về ý nghĩa của hành động viết, Thạch Lam đồng thời suy nghĩ rất sâu về giá trị và sức sống của tác phẩm văn học. Bởi vậy, đương thời, trong khi các nhà văn của nhóm và nhiều nhà văn khác chiều theo thị hiếu độc giả, đa số là tầng lớp thị dân, viết về các chủ đề có tính nhất thời; thì Thạch Lam chủ trương “đi sâu vào tâm hồn của chúng ta mà thôi” và “phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới”. Đó là những câu chuyện bình dị, thoạt nghe không có vẻ hấp dẫn nhưng thực chất lại chứa đựng tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Nội dung ấy được biểu đạt trong một văn phong ngắn gọn, chuẩn mực, hiện đại. Dù vào thời điểm đó, văn Thạch Lam “bán ế nhất” (nhận xét của Nhất Linh) so với các nhà văn khác trong nhóm, nhưng ngày nay đọc lại ta vẫn thấy được sức hấp dẫn mạnh mẽ của những phẩm tính vững bền cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật.
*

PGS.TS Lê Tú Anh
trunghocthuysan.edu.vn.edu.vn

1. Trong công việc của một nhà biên tập, một chủ bút<1>, Thạch Lam có điều kiện và đã quan sát rất kỹ đời sống văn học mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Ông nhận thấy rất rõ các xu thế vận động của tiểu thuyết. Miêu tả những chuyển động của văn chương, nhất là tiểu thuyết từ sau khi xuất hiện Phong hóa, nghĩa là bao gồm cả tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, Thạch Lam thấy có điểm chung là sự nông nổi, hời hợt, nghèo nàn vốn sống, trí tưởng tượng, rất hiếm sự thành thực và ít người có “cái can đảm mình dám làm mình”, thậm chí nhiều người thường hay bắt chước, a dua. Tất nhiên, nhận xét của Thạch Lam bao hàm cả những vận động “khó nhọc” ở bước đi chập chững đầu tiên của văn xuôi quốc ngữ, nhưng điều đáng nói là ông đã có một thái độ rất thẳng thắn, nhìn trực diện vào những giới hạn của đời sống văn học đương thời. Đó là thái độ phê bình rất cần thiết cho một nền văn học đang phát triển<2>.

Không chỉ đánh giá sát sao về người viết, Thạch Lam còn quan tâm kỹ lưỡng đến người đọc. Ông cho rằng, về cơ bản, đời sống văn học luôn có hai dạng độc giả: một hạng “chỉ cốt xem truyện” và một hạng “thích suy nghĩ, thích tìm trong sách những trạng thái tâm lý giống tâm hồn mình”, trong đó, hạng “chỉ cốt xem truyện” đông hơn. Hạng này “ngốn tiểu thuyết như người ta ăn cơm lấy no”<3> và chính là những người khiến cho nhiều nhà văn phải chạy theo thị hiếu của họ. Các loại tiểu thuyết kiếm hiệp, võ hiệp được số đông độc giả bấy giờ yêu thích vì nó khiến họ được thỏa mãn về tâm lý - tâm lý “đi tìm an ủi trong những cái tưởng tượng huyễn diệu, dù rằng vô lý”<4>. Cũng để thỏa mãn người đọc số đông, các loại tiểu thuyết trinh thám, phiêu lưu, du ký… đã bắt đầu nảy nở, dù vẫn còn khiêm tốn.

2. Quan sát và suy ngẫm về đời sống văn học bấy giờ, ngoài một sự đọc chăm chỉ và thái độ phê bình thẳng thắn, Thạch Lam còn có một quan niệm rất sâu về tác phẩm văn học. Ông nhận thức rất đúng rằng: “Cuộc lựa chọn của thời gian thực sự rất nghiêm khắc và công bằng”<5>. Theo Thạch Lam, muốn tác phẩm có sức sống bền vững mãi mãi, nhà văn cần phải diễn tả những “tính tình bất diệt của loài người” bằng một “nghệ thuật chắc chắn”. Với ông, viết văn là một nghề đòi hỏi phải công phu, nhưng không chỉ công phu, người viết văn muốn có tác phẩm hay, cần phải có sự rung động thực sự. Nhà văn trước hết phải thành thực với chính mình - đó không phải là thuộc tính duy nhất, nhưng là đòi hỏi đầu tiên đối với một nhà văn. Bởi vì, chỉ có sự thành thực mới tránh cho nhà văn thói a dua, thói bắt chước, viết theo phong trào chứ không vì những nhu cầu tự thân.

Bằng những cách khác nhau, Thạch Lam nhắc nhiều đến chữ “sâu sắc”. Nói về Tố Tâm và số phận của tác phẩm này, ông viết: “Tố Tâm bị số phận đó (nhanh chóng bị lãng quên giống như tác phẩm của Từ Trẩm Á - LTA chú) vì cái nghệ thuật không vững bền; cuốn tâm lý tiểu thuyết ấy chỉ phân tích có cái tâm lý hời hợt bên ngoài, một cái thái độ của tâm hồn mà thôi”<6>. Ông cũng nói nhiều về hai chữ “tinh thần”, “tâm hồn” như là những phần quý giá, thiêng liêng của sự sống con người. Theo ông, tác phẩm văn học, nhất là những tiểu thuyết không chạy theo cái nhất thời, đều có thể góp phần làm cho đời sống tâm hồn con người trở nên phong phú, dồi dào, mãnh liệt. Và “Khi tâm hồn ta đã rèn luyện thành một sợi dây đàn sẵn sàng rung động trước mọi vẻ đẹp của vũ trụ, trước mọi cái cao quý của cuộc đời, chúng ta là người một cách hoàn toàn hơn”<7>. Nghĩa là nhà văn đánh giá rất cao vai trò của tác phẩm văn học, nhất là tiểu thuyết, trong việc làm phong phú, cao quý cuộc sống của con người, giúp cho con người biết sống hơn.

3. Với một nhận thức sâu sắc về vai trò của tác phẩm văn học, với niềm ấp ủ về những sáng tác có sức sống “bất diệt”, “đời đời”, “lâu bền”, “vững bền”, “mãi mãi”…, Thạch Lam đã không hề chạy theo số lượng, không viết một cách ồ ạt. Cuộc sống thiếu thốn với nhà tranh vách đất<8> và mưu sinh vất vả<9> không hề làm nao núng ngòi bút của ông. Ra đi khi mới 32 tuổi đời, vào lúc tuổi nghề đang độ chín, Thạch Lam để lại một sự nghiệp văn chương khiêm tốn về số lượng, trong đó nổi bật là mấy tập truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa(1937), Nắng trong vườn(1938), Sợi tóc (1942), truyện dài Ngày mới(1939), tập tiểu luận Theo giòng(1941), tập tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường(1943)… Tất cả đều do nhà xuất bản Đời nay của Tự lực văn đoàn xuất bản. Dù nghiên cứu rất kỹ thị hiếu độc giả và xu hướng của văn học đương thời, nhưng sáng tác của Thạch Lam tuyệt nhiên không có dấu hiệu của văn học thị trường. Ông không chiều theo tâm lý đám đông - những người đọc dễ dãi, đọc tiểu thuyết “chỉ cốt xem truyện”, nhất là truyện về những chủ đề có tính nhất thời, đang thịnh hành, đang mốt<10>. Ông đánh giá cao sáng tác của các nhà văn Anh, Nga vì nó đi sâu vào tâm hồn con người. Và một điều lạ nữa ở Thạch Lam là, dù nghiên cứu kỹ văn học Âu - Mỹ, dù rất tán thưởng nhiều quan điểm về văn chương của các nhà văn tiến bộ Anh, Nga, Pháp, Mỹ…, nhưng dấu ấn ảnh hưởng phương Tây trong văn của Thạch Lam không hề lộ ra ở những biểu hiện giản đơn, mang tính hình thức.

Từ tất cả những quan sát, học hỏi, phân tích, chiêm nghiệm…, cuối cùng Thạch Lam nhận ra một cách viết mà theo ông, nó chính là con đường đưa tác phẩm của nhà văn đến sự thành công: “Chúng ta không cần bắt chước ai, (mà công việc bắt chước không phải là công việc sáng tác). Chúng ta cứ việc diễn tả cái tâm hồn annam của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ trong thâm tâm. Chúng ta chỉ có thể bằng các nhà văn ngoại quốc, khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn của chúng ta mà thôi”<11>. Tất nhiên, ngày nay đọc lại ta thấy khó đồng tình với chữ “annam” vì trong thời Pháp thuộc nó được dùng để chỉ Trung Kỳ - “vùng đất do triều đình nhà Nguyễn cai quản dưới sự bảo hộ của Pháp”<12>, nó có thể gợi ra cảm giác về sự chia cắt, lệ thuộc, thân phận nô lệ. Tôi cho rằng, đây chỉ là một thói quen ngôn ngữ, ý để chỉ người Việt Nam, chứ Thạch Lam hoàn toàn không có tâm lý lệ thuộc. Ý chí tự cường, tự lực về văn hóa thể hiện rất rõ ngay trong phát biểu này của ông và trong toàn bộ tác phẩm ông để lại.

Diễn tả tâm hồn Việt để không bị lặp lại những điều mà các nhà văn lớn của thế giới đã viết là lựa chọn để vượt lên những cái bóng lớn trên văn đàn. Khát vọng này của Thạch Lam không chỉ hướng tới tầm quốc gia, ông như đang mường tượng về tầm vóc của một nhà văn thế giới trong bản sắc dân tộc mình. Trên hành trình tìm tới nhân loại, Thạch Lam đã quay về cái bản ngã trong một quan niệm hết sức giản dị mà chuẩn xác: “Qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết những trạng thái tâm lý của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lý người ngoài”<13>. Nói như thế không có nghĩa là Thạch Lam không quan tâm đến đời sống hiện thực. Trong cái nhìn bao quát, có thể thấy, tác phẩm của Thạch Lam đã làm nổi bật đời sống thiếu thốn, lam lũ, tội nghiệp của phần đông người Việt Nam trong bối cảnh thuộc địa. Đặc biệt, vào những năm đầu thập niên 40 thế kỷ XX, Thạch Lam cũng như nhiều nhà văn khác, nhất là các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực, hẳn là đã bị ám ảnh ghê gớm về một nạn đói hoành hành dữ dội. Cùng thời với Thạch Lam, Nam Cao đã viết về miếng ăn như một tiếng kêu khẩn thiết trước nguy cơ đe dọa sự sống của con người. Hiện thực ấy khiến một nhà văn rất quan tâm đến con người như Thạch Lam không thể không xúc động. Nhân vật mẹ Lê (Nhà mẹ Lê - Thạch Lam) khiến ta liên tưởng tới chị Dậu (Tắt đèn - Ngô Tất Tố): cũng vì sự sống của mình, của gia đình, mẹ Lê đã liều đến nhà ông Bá xin ít gạo giống như chị Dậu liều đến nhà Nghị Quế giữa giờ trưa, cả hai đều bị chó nhà giàu cắn, máu chảy đầm đìa, nhưng chị Dậu vẫn giữ được mạng sống, còn mẹ Lê thì không thể vượt qua một kết cục bi thảm là cái chết. Truyện Đói (Thạch Lam) khiến ta liên tưởng đến Đời thừa, Sống mòn (Nam Cao) - truyện về những thanh niên, trí thức bị “miếng ăn ghì cho sát đất” nhưng vẫn có lúc tỉnh táo để ăn năn về những sự “khốn nạn”, “bất lương”, vô liêm sỉ của mình… Cũng bởi những sự tương đồng đó, nhiều người xếp Thạch Lam vào khuynh hướng hiện thực, cho rằng sáng tác của Thạch Lam gần gũi với chủ nghĩa hiện thực hơn cả so với các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn. Cả Nhà mẹ Lê, Đói đều là những câu chuyện giàu kịch tính, có thể phù hợp với tâm lý người đọc đương thời, có thể phản ánh được một phần cái thời cuộc mà ông và nhiều người trải qua. Nhưng rồi, như ta đã thấy, Thạch Lam không sa đà vào một đề tài mà có lẽ theo ông, dù quan thiết, hệ trọng, vẫn mang tính nhất thời.

Đọc toàn bộ sáng tác của Thạch Lam, có thể nhận thấy, dù không chủ trương phản ánh hiện thực - những hiện thực có tính nhất thời, nhưng xét về đề tài/chủ đề, truyện của Thạch Lam đề cập đến rất nhiều vấn đề, phong phú không kém các cây bút hiện thực chủ nghĩa. Bên cạnh bức tranh về đời sống lam lũ, bần hàn của những người lao động thuộc tầng lớp dưới cùng của xã hội, có vấn đề con người rời bỏ nông thôn lên thành thị kiếm sống rồi rơi vào cảnh mòn mỏi, tàn tạ (Một cơn giận, Người bạn trẻ), vấn đề con người trong môi trường đô thị, chạy theo lối sống hưởng thụ vật chất, quên nghĩa cũ tình xưa (Trở về, Trong bóng tối buổi chiều…), vấn đề thân phận người phụ nữ trong cuộc mưu sinh cực nhọc ở đô thị (Tối ba mươi), thân phận người phụ nữ trong những bi kịch gia đình (Một đời người, Hai lần chết), thân phận người trí thức viết văn kiếm sống nhưng tác phẩm ít người đọc (Cuốn sách bỏ quên), thân phận người đàn ông từng đi lính cho Pháp ở chiến trường châu Âu cuối đời sống lay lắt, khổ sở (Người lính cũ), có truyện thấp thoáng đời sống người thợ/công nhân (Trong bóng tối buổi chiều), có cả câu chuyện về mối giao lưu Pháp - Việt (Người đầm)… Tuy nhiên, khác với các nhà văn hiện thực, Thạch Lam không tiếp cận vấn đề trên bình diện xã hội, giai cấp. Từ đầu đến cuối, nhà văn nhất quán cách tiếp cận từ góc độ con người cá nhân với những thân phận cụ thể, cá biệt. Hầu như ông không có ý định lột tả bản chất xã hội của vấn đề, không chủ trương điển hình hóa, khái quát hóa các vấn đề xã hội. Ông tìm kiếm và thể hiện bản thể, nhân tính trong những câu chuyện thân phận con người.

Phần lớn truyện ngắn của Thạch Lam chỉ quan tâm thể hiện những trạng thái tâm lý, cảm xúc hết sức thông thường: trạng thái của một người đàn ông lần đầu được làm cha (Đứa con đầu lòng); nỗi buồn tủi, niềm khát khao sum họp trong thân phận lạc loài tha hương giữa đêm giao thừa của những cô gái lầm lỡ (Tối ba mươi); trạng thái bực tức tự nhiên, vô cớ gây đau khổ cho người khác (Một cơn giận); sự thay đổi của một người từ chỗ đau khổ vì bị người khác gây thương tổn thể xác đến khi được bù đắp vật chất lại sa vào hưởng lạc vô nghĩa rồi tự gây thêm cho mình vết thương tinh thần (Cái chân què); nỗi niềm chưa kịp vui đã buồn, thậm chí tuyệt vọng, của một nhà văn về thái độ đón nhận tác phẩm của người đọc (Cuốn sách bỏ quên); cuộc đấu tranh nội tâm giữa sự trung thực và gian dối (Sợi tóc); diễn biến của mối tình đầu chớm nở nhiều cung bậc giữa cô con gái ông chủ nhà với người trọ học (Tình xưa)… Dù những trạng thái đó có là nguyên nhân hay kết quả của nhiều sự kiện, biến cố khác, thì mối quan tâm của nhà văn vẫn là dành cho việc làm nổi bật những trạng thái đó mà thôi. Trong truyện Người bạn cũ, nhân vật tôi thời tuổi trẻ hăng hái đã từng rất thân thiết với Lệ Minh, từng hứa lúc nào cũng sẵn lòng giúp cô trong lúc khó khăn, vậy mà khi trưởng thành, được sống cuộc đời trưởng giả, gặp lại người cũ lỡ bước cần giúp đỡ, anh ta đã tìm cách từ chối. Ở đây có hai tuyến truyện: một là mối quan hệ giữa “tôi” và Lệ Minh và hai là cuộc đời của Lệ Minh, mà theo tôi, chuyện cuộc đời Lệ Minh cũng thật ly kỳ, có thể phát triển thành những bi kịch kiểu cô Ba Tràh (Cô Ba Tràh), cô Phượng (Mồ cô Phượng) xuất hiện trước đó rất ăn khách<14>. Nhưng cuối cùng, phần đọng lại, dư âm của truyện lại không phải là chuyện đó, mà là một truy vấn bản thể của “tôi” - “tôi là ai?”: “Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh nào thật là của tôi? Tôi không dám trả lời.”<15>. Tương tự như thế, truyện Một cơn giận ngắn mà gợi mở nhiều mạch truyện: truyện giữa nhân vật anh Thanh với một phu xe và truyện về thân phận của người phu xe. Giữa hai mạch này, truyện người phu xe có nhiều tình tiết gay cấn hơn, nhất là sau chuyến xe chở khách vượt tuyến từ ngoại thành vào nội thành bị cảnh sát phát hiện. Những miêu tả cận cảnh về anh xe, về dãy nhà trọ ở phố Khâm Thiêm nơi gia đình anh xe trú ngụ khiến ta ngay lập tức liên tưởng đến các phóng sự của Tam Lang (Tôi kéo xe), của Vũ Trọng Phụng (Cơm thầy cơm cô)… với những miêu tả đưa lại nhiều cảm nhận thị giác: “Một bà cụ già gầy giơ xương ngồi cắn chấy ở vệ hè chỉ cho tôi một cái cửa thấp bé ở đầu nhà. Tôi cúi mình bước vào, chỉ thấy tối như bưng lấy mắt và thấy hơi ẩm lạnh thấu vào tận trong mình.”; “Khi mắt đã quen rồi, tôi nhận thấy người đàn bà vừa hỏi, một bà già ngồi ở mép một chiếc giường tre mục nát kê ở sát tường. Sau lưng bà này, một người đàn bà nữa ngồi ôm trong lòng một vật gì hơi động đậy”<16>. Nếu theo đuổi lối viết này và hướng đến những vấn đề nóng hổi, tác phẩm của Thạch Lam có thể đã “bán chạy”. Nhưng truyện quay về nhấn mạnh hậu quả cái cơn giận vô cớ của anh Thanh: không chỉ là một thảm kịch cho gia đình anh xe, mà ngay với anh Thanh, nó vẫn luôn hiện diện như là một “vết thương chưa khỏi”. Như vậy, từ góc nhìn chủ thể sáng tạo, Thạch Lam rõ ràng không phải không có khả năng quan sát và miêu tả sâu sắc, hấp dẫn những chủ đề nóng bỏng/“hợp thời”. Vấn đề ở đây là sự lựa chọn, là bản lĩnh và trí tuệ người viết. Việc “lội ngược dòng” xu hướng chung, tức lựa chọn viết những điều mà loại người đọc “chỉ cốt xem truyện” - lực lượng đông đảo hơn lúc bấy giờ - không thấy hấp dẫn, trước hết thể hiện bản lĩnh dám chấp nhận một đối xử thiếu công bằng, một sự thờ ơ, thậm chí ghẻ lạnh, của số đông. Đổi lại, điều ông mong mỏi là sự sống dài lâu hơn cho những đứa con tinh thần của mình, ngay cả khi ông không còn được chứng kiến điều đó. Thử thách còn lại là câu chuyện của tài năng: làm thế nào để chuyện bình thường mà gây được sự xúc động, tác động được vào nhận thức của con người? Câu trả lời có lẽ không gây nhiều tranh cãi: Thạch Lam đã miêu tả một cách hết sức chính xác và tinh tế những trạng thái, diễn biến cảm xúc nhỏ bé nhất của con người. Có thể nói, Thạch Lam giống như một nhà tâm lý học diễn tả tri thức chuyên ngành bằng hình tượng và ngôn từ nghệ thuật. Và thông qua những hình tượng, ngôn từ, chính xác tới mức như là khoa học về con người ấy, truyện của Thạch Lam đã thể hiện được những nhân tính phổ quát, thường hằng. Do thế, đó không phải là câu chuyện của một thời nữa, vượt lên thử thách của thời gian, chúng không có giới hạn về thời gian.

Vậy là, Thạch Lam đã hiện thực hóa được điều ông quan niệm về hoạt động sáng tác văn học: “qua tâm hồn ta để ta hiểu được tâm hồn người”. Với việc đi sâu vào nội tâm con người, trước hết là những người nhỏ bé chung quanh, và hơn hết là tâm hồn chính mình, Thạch Lam đã nhìn ra được cái phổ quát mang tính nhân loại. Cùng với việc thể hiện những nhân tính phổ quát, Thạch Lam - một nhà văn giàu tinh thần dân tộc, đã có nhiều tác phẩm tập trung khám phá, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Việt. Gắn với nội dung này là những trang văn đem lại cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát, đôi khi vút lên bởi những âm thanh cao khiết trong đời sống tinh thần của con người. Điều này khiến cho tác phẩm của Thạch Lam có sự khác biệt rất rõ so với Tam Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Theo tôi, sự khác biệt này không hẳn do phương pháp sáng tác. Nó xuất phát từ một quan niệm riêng của Thạch Lam về sứ mệnh người cầm bút: “Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”<17>. Bởi thế, phần lớn sáng tác của Thạch Lam đều kể những câu chuyện hết sức bình dị, bình dị tới mức, đối với người đọc chỉ cốt xem truyện, nó có thể khiến người ta thấy khó chịu vì cho rằng không có gì đáng để đọc. Đó là tình cảm thương yêu, sẵn sàng sẻ chia cho người cùng cảnh ngộ của những đứa trẻ nghèo (Gió lạnh đầu mùa); là niềm hãnh diện của một cô gái mới lớn lần đầu được mẹ tin tưởng giao cho chiếc chìa khóa một cửa hàng tạp hóa (Hai đứa trẻ); là cảm giác lo toan trĩu nặng của người chị cả trong thiên tính của người vợ, người chị, người phụ nữ (Cô hàng xén); là cảm giác thanh thản, trong lành, dịu êm khi được trở về khu vườn, nếp nhà ở thôn quê của bà, được gặp lại người bạn gái ngày xưa (Dưới bóng hàng lan)… Tất cả đều ở dạng những trạng thái cảm xúc chưa thật rõ ràng, rất mơ hồ, khó biểu đạt và dễ bị bỏ qua. Thạch Lam không những không bỏ qua, ông đã miêu tả một cách hết sức tinh tế. Tinh tế đến mức có thể chạm đến phần sâu thẳm bên trong mỗi con người. Những thiếu nữ, những người chị, người vợ đều thấy bóng mình trong hình dáng và cảm xúc của Liên (Hai đứa trẻ), của Tâm (Cô hàng xén). Những người có tuổi thơ gắn bó sâu nặng với bà, với những ngôi nhà đơn sơ trong vườn cây nhiều hoa trái và chiếc giếng trong mát hẳn là muốn đọc hơn một lần Dưới bóng hàng lan để đồng cảm và hồi ức về những kỷ niệm thơ ấu của mình. Một vài ví dụ để thấy những điều Thạch Lam quan tâm hầu như chẳng có gì to tát, nhưng nó có sức lan tỏa, lay động. Bởi vì đó không phải là tâm trạng của một người, mà là vẻ đẹp tâm hồn của người Việt, tính cách của người Việt đời đời. Bối cảnh đô thị hóa đã và đang làm cho đời sống vật chất, quan hệ tình cảm của con người thay đổi, và truyện của Thạch Lam trở thành nơi lưu giữ ký ức Việt, lưu giữ những nét đẹp văn hóa thuần Việt cho muôn đời sau.

Xem thêm: Những câu nói hay về người yêu cũ, những stt cảm động viết cho người yêu cũ

Cũng bằng cảm quan của một nhà văn thường trực cái nhìn hướng nội, chú trọng nội tâm, cảm xúc, Thạch Lam đã gây bất ngờ bởi truyện Người đầm. Thực ra, sự xuất hiện của người phụ nữ Pháp trong một rạp chiếu phim ở xứ sở thuộc địa lúc ấy không phải là chuyện bất thường. Ngay cả cái chi tiết hàng ghế “lô” và hạng nhất toàn là người Pháp cũng không gây ngạc nhiên, dù cho nó có thể giúp mạch truyện rẽ sang hướng trình bày, phân tích những vấn đề rất hệ trọng như sự kỳ thị, phân biệt đối xử, sự bất công, bất bình đẳng… trong xã hội đang được “khai hóa”. Điều làm cho nhân vật “tôi” “sửng sốt”, “tò mò”, “chú ý”, “không nghĩ đến xem phim nữa” là ở chỗ một người Pháp, mà lại là một người đàn bà, ngồi ở hạng nhì lẫn với mọi người. Đặc biệt, “vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó” gợi cho người kể quá nhiều cảm xúc, suy nghĩ, hình dung, tưởng tượng… Theo dõi nhất cử nhất động của người đầm, bên trong rạp rồi ra ngoài rạp, nhân vật “tôi” từ sự chú ý, ngạc nhiên, đã “tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy” đến nỗi “tôi chỉ muốn chạy theo nói cho bà biết cái cảm tình đằm thắm của tôi, lòng kính trọng của tôi trước sự đau đớn, lòng mến yêu của tôi đối với một kẻ nhân từ”<18>. Người đầm của Thạch Lam gợi nhớ tiểu thuyết Tây phương mỹ nhơn của Huỳnh Thị Bảo Hòa<19>. Điểm chung của hai tác phẩm là đều lấy cảm hứng từ những người phụ nữ phương Tây. Nhưng nếu tiểu thuyết của Huỳnh Thị Bảo Hòa dựa trên một chuyện có thật “xưa nay hiếm” như lời tác giả ở đầu sách, thì Thạch Lam lại xuất phát từ sự rung động trước những chi tiết hết sức thường nhật. Điều này hoàn toàn nhất quán với chủ trương cầm bút của Thạch Lam. Và chính vì phát hiện được cái đẹp “ở chỗ mà không ai ngờ tới”, Thạch Lam đã vượt lên cái nhìn đại để, xác quyết về tính phi giới hạn của tình thương yêu con người. Hơn thế, đó còn là một cách để nhà văn thể hiện kín đáo vẻ đẹp tâm hồn Việt: Trong thân phận những người dân nô lệ của một nước thuộc địa, người Việt Nam vẫn có thể thương mến thành thực một người Pháp bất hạnh.

Khám phá tâm tính Việt, Thạch Lam đã phát hiện cả những nét đẹp lẫn nhiều trang u buồn. Tôi muốn nói đến hai truyện ngắn rất thú vị của Thạch Lam: Đứa con và Trở về.

Vợ chồng ông Cả trong truyện Đứa con có đầy đủ những nét tính cách thuộc về bản chất của bọn địa chủ quan lại: cũng giàu lên nhờ cho vay nặng lãi, cũng tham lam, keo kiệt, độc ác, coi của hơn người. Họ chỉ thiếu một đứa con, dù đã “lễ hết đền kia phủ nọ”. Gia đình chị Sen, như rất nhiều gia đình nghèo khổ khác, là nạn nhân của nạn đi vay nặng lãi. Thầy chị Sen vì muốn có chức Nhiêu nên phải vay ông bà Cả ba chục, đến ngày mùa mà vẫn chưa trả hết được, đành phải gán chị Sen làm đứa ở không công trả nợ. Chị Sen suốt ngày đầu tắt mặt tối, quán xuyến hầu hết công việc trong nhà mà vẫn bị mắng chửi, đánh đập. Xót thương chị Sen, xóm giềng thầm trách ông bà Cả ác nghiệt thế nên không có con là phải. Ngót một năm chị Sen ở với ông bà Cả, đến ngày thầy u đem lễ vật lên xin cho chị về để lấy chồng, chị chỉ có mấy cái quần áo cũ rách “gói ghém trong cái khăn vuông, cùng với cái lược con ba xu, một cái gương tròn nhỏ và một hộp sáp cô Ba”. Hai năm sau, chị Sen lấy chồng, có con, chị lại bế con cùng thầy u lên tết ông bà Cả. Nhưng lần này, sự xuất hiện của thằng bé mười bốn tháng tuổi con chị Sen đã làm thay đổi thái độ của bà Cả. Niềm khát khao có được một đứa con như đứa bé kháu khỉnh kia để nâng niu ấp bồng như “ấp ủ một cái mầm sống” khiến bà nghĩ đến việc giá có thể đánh đổi tất cả của cải để có được đứa con. Và rồi, lòng tham lam phút chốc như không còn chỗ, bà Cả từ chối nhận lễ của vợ chồng bác Nhiêu nghèo, lại còn mở tủ lấy hai đồng bạc mới đưa cho chị Sen bảo về may áo cho con mặc. Đứa con, đối với người Việt, luôn là một tài sản rất lớn, lớn hơn tất cả những vật chất giá trị khác. Trong truyện này, Thạch Lam cho thấy, niềm khao khát đứa con có thể làm thay đổi tâm tính bà Cả theo hướng thiện lương. Nó đúng với triết lý mà ông bà ta đã đúc kết: “Có vàng, vàng chẳng hay phô/Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe” (Ca dao).

Trong khi đứa con còn quý hơn cả gia tài của một người mẹ - kể cả với những người tham lam, keo kiệt như bà Cả; thì người mẹ lại có thể trở nên xa cách, trở thành nỗi vướng bận, thậm chí ngại ngùng, xấu hổ với những đứa con đã thay lòng đổi dạ khi rời xa mái nhà của mẹ, có cuộc sống hưởng thụ sung sướng nơi đô thành. Đó là nỗi bất hạnh của bà cụ trong truyện Trở về: Bà cụ có con trai là Tâm. Tâm xuất thân nông thôn nhưng lên Hà Nội lập nghiệp, nhờ gắng sức nên có địa vị xã hội, lại lấy được vợ nhà giàu, Tâm quên hẳn quê nhà. Cái đời thôn quê mà lúc nhỏ Tâm nghĩ nó là đời sống giản dị, sung sướng, sau này Tâm thấy quê mùa, nhạt nhẽo. Anh ta cũng không muốn liên lạc, ràng buộc gì với những người họ hàng ở làng quê nữa. Chỉ còn người mẹ già, anh ta đối xử bằng nghĩa vụ, bổn phận. Đọc Trở về khiến ta liên tưởng đến Nhà quê của Ngọc Giao<20>. Thái trong Nhà quê cũng có hành trình giống như Tâm. Và trong một lần, rất lâu rồi mới trở về quê, Thái định dứt khoát bán nốt phần đất đai còn lại của gia đình rồi sẽ ra ngay Hà Nội. Nhưng ngôi nhà cũ đã khơi dậy trong lòng Thái nhiều kỷ niệm gắn với tuổi thơ và những người yêu dấu, thiên nhiên làng quê đem đến cho Thái những cảm giác rất dễ chịu, nhất là nếp sống giản dị, thuần khiết, thái độ trân trọng nâng niu những kỷ vật cũ của bố con ông Bút - người quản gia… đã khiến Thái thay đổi quyết định không quay lại thành phố nữa mà ở lại hẳn quê nhà. Còn với Tâm, cuộc trở về thăm quê, thăm mẹ sau năm, sáu năm xa như một nghĩa vụ cũng là lần chối bỏ phũ phàng, quyết liệt những năm tháng tuổi thơ, những người thân và không gian sống quê nhà. Không gì, kể cả những tình cảm quyến luyến tội nghiệp nhất của bà mẹ già, của người con gái láng giềng thầm thương nhớ chờ đợi có thể làm lay động tâm hồn, khiến cho Tâm có chút suy nghĩ lại. Tâm đã hoàn toàn thay đổi, đã thành kẻ khác. Nhẹ nhàng mà chua xót, Trở về của Thạch Lam như nhắc nhở, cảnh tỉnh: chuyện thay lòng đổi dạ, “tham phú phụ bần”, “tham vàng bỏ ngãi” có lẽ cũng là một căn tính. Nói đúng hơn, đó là một thói tật ở xứ sở này, đã được đúc kết, chứ không riêng gì trong bối cảnh đô thị hóa, tư sản hóa đầu thế kỷ XX.

4. Thể hiện những điều bình dị mà tinh tế, sâu sắc như thế, dĩ nhiên, nhà văn phải cần đến một văn phong hiện đại. Tuy nhiên, phải hình dung rằng, trong bối cảnh văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, hành trình để đi đến một lối hành văn thực sự hiện đại là không hoàn toàn dễ dàng<21>. Từ những bi quan ban đầu - ta “có nước mà không có văn” (Phạm Quỳnh), đến những bước đi chập chững của một lối văn “trơn tuột như lời nói thường”<22>, thái độ/hành động quyết liệt, dứt khoát của Hoàng Tích Chu (từ chối “cái bả viết văn kéo dài”, “bao nhiêu thứ chữ thì, chữ mà gần bị loại hết”)… là một quá trình dài của nhận thức và thực hành, thể nghiệm. Quá trình đó có không ít khó khăn, cản trở, không phải chỉ do một thói quen tiếp nhận/một “tầm đón đợi” đã mặc định; mà còn cả từ phía người viết<23>. Trong công cuộc kiến thiết một lối văn mới, Phong hóa - cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn, đã đóng vai trò rất quan trọng: “Phong hóa hết sức phá bỏ các sáo cũ trong cách viết văn”<24>. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của Phong hóa, Ngày nay cũng như khả năng hiện thực hóa chủ trương của Tự lực văn đoàn ở mỗi cây bút của nhóm là không giống nhau. Trong những trang văn xuôi của nhiều cây bút nhóm Tự lực văn đoàn, âm hưởng du dương, réo rắt không phải đã hoàn toàn mất hẳn. Trong bối cảnh đó, Thạch Lam thuộc trong số những cây bút mà cho đến hôm nay đọc lại ta vẫn thấy văn phong hoàn toàn chuẩn mực. Tính hiện đại của văn Thạch Lam được thể hiện ở sự chính xác, vừa vặn, thuần thục, linh hoạt, uyển chuyển… của chữ viết, từ ngữ và cú pháp; ở khả năng miêu tả, biểu đạt hết sức tinh tế, sâu sắc mọi vấn đề của đời sống, kể cả những chuyển động nhỏ nhất trong nội tâm con người. Tôi thật sự ngạc nhiên trước những đoạn tả người, tả cảnh của Thạch Lam: “Lan lặng yên cầm quèo với một cành cao. Thân thể trẻ tươi và dẻo dai của nàng vươn cong dưới bóng cây, và tấm áo mảnh căng sát để phô hẳn những đường mềm mại”<25>; “Giọng u chị Sen tấm tức, rồi nghẹn ngào trong nước mắt. Còn chị Sen từ nãy vẫn cứ lặng yên đứng ở góc nhà, tay ôm chặt cái gói quần áo cũ. Một lát sau, chị lẳng lặng theo thầy u đi ra, dáng đi chậm chạp và khó nhọc, như còn đang gánh gánh nước ở trên vai”<26>... Không phải bây giờ mà tôi tin, nó vẫn còn sức hấp dẫn với người đọc nhiều chục năm sau.

Giữa bối cảnh bề bộn, ngổn ngang của đời sống văn học trong cuộc biến động của lịch sử, cuộc vần xoay của xã hội đầu thế kỷ XX, việc lựa chọn hướng đi nào phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh và tài năng của người viết. Lựa chọn của Thạch Lam, vào lúc ấy, có thể không được xem là “thức thời”, “nhạy bén”, nhưng thời gian đã có câu trả lời cho các giá trị trong sáng tác của ông. Nếu nói rằng Tự lực văn đoàn đã có đóng góp rất lớn vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, thì trong công lao đó, ta không th