TTO - Đề thi văn kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay ra bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, còn câu nghị luận yêu cầu viết về trân trọng cuộc sống mỗi ngày. Cả thí sinh lẫn giáo viên nói đề dễ.


*

Thí sinh Phương Thảo (điểm thi THPT Trần Nhân Tông, Hà Nội) và mẹ "ăn mừng" hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên - Ảnh: CHU HÀ LINH


9h35, các thí sinh hoàn thành bài thi môn văn kỳ thi tốt nghiệp THPT 2020.

Bạn đang xem: Đề thi tốt nghiệp thpt 2020 môn văn

Phần làm văn năm nay yêu cầu thí sinh viết về sự cần thiết trân trọng cuộc sống mỗi ngày, và phân tích tư tưởng "đất nước của nhân dân" trong bài Đất nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.



Giáo viên nhận định: Đề dễ, khó phân loại thí sinh

Theo nhiều giáo viên dạy văn lớp 12 ở TP.HCM, đề năm nay dễ hơn năm trước và khó phân loại thí sinh.

Thầy Nguyễn Văn Cải, giáo viên môn văn, phó hiệu trưởng Trường THPT Quang Trung, TP.HCM, cho biết: "Đề năm nay thuộc dạng vừa sức thí sinh, nội dung của đề nằm trong phần trọng tâm, trọng điểm của chương trình THPT, đặc biệt là lớp 12. Phần đọc - hiểu cũng tương đối dễ, câu hỏi rất rõ ràng. Những thí sinh có học bài là có thể lấy được 3 điểm ở phần này.

Bên cạnh đó, đề cũng có 2 câu khá hay: đó là câu 4 của phần đọc - hiểu và câu nghị luận xã hội. Việc yêu cầu thí sinh viết về vấn đề "trân trọng cuộc sống mỗi ngày" vừa mang tính định hướng, giáo dục lối sống cho giới trẻ, vừa kiểm tra được khả năng viết văn của học sinh".

Tuy nhiên, ông Cải cho rằng: "Câu hỏi phần nghị luận văn học thuộc dạng an toàn, chưa đáp ứng được mong đợi của nhiều giáo viên là sẽ mới mẻ hơn, đòi hỏi thí sinh phải tư duy nhiều hơn. Nhìn chung, đề thi năm nay đạt được mục đích xét tốt nghiệp THPT cho thí sinh. Nhưng việc phân loại thí sinh thì khó đạt được".

Theo giáo viên Hồ Hoài Khanh, tổ trưởng tổ văn Trường THPT Đông Đô TP.HCM, đề thi năm nay đúng như cấu trúc và đề minh họa của bộ. Những năm trước giữa đề minh họa và chính thức có độ lệch nhất định.

Đề năm nay có phần dễ thở so với các năm trước. Trong đó, phần đọc hiểu và nghị luận xã hội với các nội dung đọc hiểu, nhận biết, vận dung thấp, vận dụng cao nhưng quen thuộc và không quá khó. Do đó thí sinh không khó để lấy điểm phần này.

Phần phân loại nằm ở nghị luận văn học. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không phải là bài quá khó nhưng cái khó nằm ở chỗ cách chọn nội dung ra đề. Những câu thơ trong đề nằm ở cuối đoạn trích trong chương trình với chủ đề nhân dân làm nên đất nước.

Năm nay dịch COVID-19, hình ảnh nổi trội nhất là hình ảnh đất nước, nhân dân kiên cường chống dịch. Vì thế rất nhiều người đoán đề sẽ ra bài Đất nước và đúng là đề ra như vậy. Tuy nhiên, với một đoạn trích dài 90 câu, không ít giáo viên chọn dạy kỹ phần đầu với chủ đề Đất nước của nhân dân. Phần sau chủ đề nhân dân làm nên đất nước thường được dạy lướt qua. Do đó, dù đoán được đề và ôn bài này nhưng nếu không ôn trọn vẹn, không tập trung vào chủ đề phía sau sẽ gặp khó khăn.

Đề ngữ văn không khó nhưng dài

Cô Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên ngữ văn Trường THPT Chu Văn An, giáo viên của hệ thống HOCMAI, cho rằng đề ngữ văn thi tốt nghiệp THPT năm nay không khó nhưng dài, nhất là câu nghị luận văn học chiếm quỹ thời gian nhiều nhất.

Vì thế nếu học sinh không phân bổ thời gian hợp lý sẽ có thể không đủ thời gian làm bài.

Câu nghị luận xã hội vẫn yêu cầu học sinh nghị luận về một khía cạnh của vấn đề rút ra từ phần Đọc hiểu đó là "sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày" - "sự cần thiết" được hiểu là ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của ý thức "trân trọng cuộc sống mỗi ngày".

"Câu viết đoạn văn nghị luận xã hội đảm bảo đúng "form", cấu trúc, dung lượng mà học sinh ôn luyện, phù hợp với thời lượng và quỹ điểm; khía cạnh của vấn đề nghị luận cũng hướng tới một trong những điều quan trọng của cuộc sống mỗi cá nhân. Tuy nhiên, đây là một vấn đề ít nhiều còn trừu tượng với những học trò 18 tuổi - chưa đủ trải nghiệm để có thể thấu hiểu ý nghĩa của mỗi giây phút được sống trong cuộc đời, vì thế rất có thể sẽ có những bài làm chung chung, lý thuyết và thiếu sự thiết thực thấm thía nhất với mỗi học trò"- cô Tuyết nhận xét.

Trong khi đó theo cô Tuyết, câu đọc hiểu 3 điểm, nhiều thí sinh có thể đạt được điểm tối đa. Trong câu này chỉ có câu hỏi nhỏ thứ 4 là ở mức độ vận dụng cao yêu cầu học sinh phải vận dụng những hiểu biết về cuộc sống xã hội cùng những trải nghiệm cá nhân để thể hiện quan điểm độc lập của mình trước một nhận định rút ra từ ngữ liệu đã cho.

Thông báo tuyển sinh Đăng ký - Tra cứu hồ sơ Hướng nghiệp Tư vấn
Viện/Trung tâm/Phòng Khối Kinh tế - Giáo dục Khối KHCB - Kỹ thuật Khối Sức khỏe - Khoa học - Ngôn ngữ
Giới thiệu Tuyển sinh Môi trường học tập Việc làm đầu ra Các Khoa/Viện/TT

Đề thi và đáp án chính thức kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2020 - Môn Văn


Quý phụ huynh và các em vui lòng nhấn F5 để cập nhật những thông tin mới.

*

ĐỀ THI MÔN VĂN

*

GỢI Ý ĐÁP ÁN MÔN VĂN

Phần I: Đọc hiểu

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích là nghị luận

Câu 2: Theo đoạn trích, các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực sinh trưởng giữa mùa hè ngắn ngủi đua nhau nảy mầm, nở thật nhiều hoa, kết hạt, chen chúc vươn mình trong khoảng với mảnh đời thật ngắn ngủi.

Câu 3: Điểm tương đồng về sự sống của các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực và vùng sa mạc Sahara:

Các loài thực vật đều sống ở nơi có thời tiết, khí hậu khắc nghiệt (nơi lạnh giá, nơi khô cằn). Tuy nhiên, các loài thực vật đều có sức sống mãnh liệt, vươn lên, bật trồi, nảy mầm, nở hoa và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khó khăn cũng như nuôi dưỡng sự sống. Các loài thực vật đều sống hết mình, sống nghiêm túc trong từng khoảnh khắc, phút giây hiện tại

Câu 4:Học sinhcó thể đồng tình hay không đồng tình với ý kiến nhưng cần có lý lẽ hợp lý, thuyết phục.

Ví dụ: Tôi đồng tình với ý kiến của tác giả: “Sống hết mình cho hiện tại sẽ đưa sự sống, dù nhỏ, vươn đến ngày mai”.

Bởi lẽ:

Sống hết mình là sống có ý nghĩa, tận hiến hết năng lực của bản thân. Chỉ khi sống hết mình chúng ta mới phát huy hết sức mạnh nội tại, tiềm ẩn. Cuộc sống luôn có muôn vàn khó khăn, chông gai, thử thách, sống hết mình sẽ giúp ta đương đầu, có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua, vươn lên, hướng tới những gì tươi sáng nhất. Nếu chúng ta không sống hết mình thì chúng ta sẽ sớm nản chí khi gặp khó khăn, thất bại và sẽ không thể vươn tới ánh sáng của tương lai.

Phần II: Làm văn

Câu 1

a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn:

Đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ. Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích, song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày.

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Học sinh được thể hiện quan điểm riêng về vấn đề nhưng cần trình bày ngắn gọn, mạch lạc và giàu sức thuyết phục. Có thể triển khai bài viết với các ý lớn sau:

- Giải thích vấn đề:

“Trân trọng cuộc sống mỗi ngày”: Trân trọng cuộc sống trong hiện tại, sống có ý nghĩa từng phút giây bằng cách phát huy hết năng lực bản thân, khẳng định được mình và đóng góp cho đời, biết yêu thương, quan tâm đến người xung quanh.

- Bàn luận:

Quá khứ là những gì đã qua, tương lai là những gì chưa đến nên cần trân trọng từng ngày ta đang sống. Trân trọng cuộc sống mỗi ngày sẽ giúp ta sống thực tế, có niềm hạnh phúc ngay trong đời thường. Sống có ý nghĩa từng phút giây trong hiện tại để có nền tảng vững chắc cho tương lai. Nếu không trân trọng cuộc sống mỗi ngày, ta sẽ chìm đắm trong những chuyện vui buồn của quá khứ; hoặc quá lo lắng hay ảo tưởng về tương lai.

- Mở rộng và liên hệ bản thân:

Trong cuộc sống, có những người sống hoài niệm về quá khứ hoặc nghĩ về tương lai một cách quá mức, khiến họ không cảm nhận được hạnh phúc của cuộc sống hiện tại. Ngược lại, có những người chỉ sống trong thực tại, không nghĩ gì đến quá khứ hoặc không biết dự tính cho tương lai. Cách sống này cũng chưa hoàn toàn đúng đắn. Mỗi chúng ta cần biết yêu quý, nâng niu những phút giây của cuộc sống thực tại, đồng thời cũng nên nghĩ về quá khứ và tương lai một cách hợp lya. Học sinh liên hệ bản thân.

Câu 2.

a. Yêu cầu hình thức:

- Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Mở bài giới thiệu vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

- Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. b. Yêu cầu nội dung: - Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.

- Triển khai vấn đề:

* Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích “Đất Nước” Giới thiệu vấn đề.

* Thân bài:

** Khái quát

Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra vô cùng ác liệt. Đoạn trích “Đất Nước” được viết nhằm thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam ý thức về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình mà xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược. Vị trí, kết cấu đoạn trích, đoạn thơ. Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca, là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Đoạn trích gồm 2 phần: Phần 1: Tác giả khẳng định nguồn gốc lâu đời của đất nước. Phần 2: Tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Đoạn thơ trên nằm ở phần hai đoạn trích, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được thể hiện qua đoạn trích Ba câu đầu: Thể hiện cái nhìn khái quát về chiều dài thời gian lịch sử của "Đất Nước". Câu mở đầu “Em ơi em” là lời gọi tha thiết khiến những câu thơ chính luận mang đậm cảm xúc trữ tình. Hai câu sau: Vừa là lời mời gọi, vừa là lời khẳng định lịch sử đầy vẻ vang của dân tộc: Cụm từ “bốn nghìn năm” khẳng định đầy tự hào về truyền thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc. 15 câu tiếp: Nhân dân làm nên dòng chảy lịch sử cho "Đất Nước". Các danh từ chung như “người người”, “lớp lớp”, “con gái”, “con trai” để đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của nhân dân. Mỗi lớp người là một thế hệ, bốn nghìn lớp người cũng là bốn nghìn thế hệ với vô vàn những người con gái, con trai. Tất cả đều trẻ trung nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác. Cụm từ “năm tháng nào” kết hợp với phó từ “cũng” nhấn mạnh ở bất cứ thời điểm nào của lịch sử đều có sự đóng góp của nhân dân. Nhân dân “cần cù làm lụng” trong thời bình như khi đất nước có giặc họ sẵn sàng ra trận. Ở cuộc chiến đấu đó, không chỉ có những người con trai anh dũng, mà còn có biết bao người phụ nữ anh hùng, bất khuất vừa “nuôi cái cùng con”, vừa “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Đặc biệt, tác giả còn nhấn mạnh sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ của nhân dân ở cách sống, cách nghĩ “giản dị và bình tâm”. Bảy câu tiếp theo: Nhân dân làm nên giá trị văn hóa cho "Đất Nước". Đại từ “họ” được điệp lại nhiều lần khẳng định sự đông đảo, sự đóng góp vô danh thầm lặng của Nhân dân. Cặp động từ “giữ… truyền” hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ nhấn mạnh sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là gánh vác việc thế hệ trước giao phó, duy trì phát triển rồi dặn dò, truyền lại cho con cháu tiếp nối. Nhân dân là người sáng tạo nên bề dày văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được tiếp nối, tôn tạo, giữ gìn qua nhiều thế hệ được thể hiện: Họ giữ và truyền “hạt lúa”, “ngọn lửa”, thể hiện sự gieo mầm, nuôi dưỡng sự sống kết nối. Đó là hành động bảo tồn, phát huy những kinh nghiệm canh tác của nền văn minh lúa nước. Hành động “truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi” thể hiện lối sống nghĩa tình của nhân dân. “Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói” thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Ngôn ngữ là thước đo của nền văn minh, ngôn ngữ tồn tại là vì nhân dân nhưng cũng vì nhân dân và cũng nhờ nhân dân lưu giữ bản sắc, tiếng nói của dân tộc để đất nước được trường tồn bất diệt. “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” gợi đến những cuộc chinh phục đất đai, mở mang bờ cõi. Những người dân vô danh đã lấy tên mảnh đất quê hương xứ sở của mình để đặt cho những miền đất mới. Vì thế, trên suốt chiều dài đất nước hình chữ S này có biết bao tên làng, tên xã trùng nhau. Mỗi mảnh đất đều trở nên thiêng liêng gắn bó. “Họ đắp đập be bờ để người đời sau trồng cây hái trái” khắc họa hình ảnh nhân dân vừa gieo trồng vừa gặt hái để lại những giá trị vật chất và tinh thần cho đời sau. Nhân dân vô danh còn tạo nên truyền thống bất khuất anh hùng cho đất nước: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Trong đoạn thơ, đại từ “họ” được điệp lại năm lần, được đặt ở đầu đoạn thơ thể hiện thái độ ngợi ca, tôn trọng nhân dân. Nhà thơ còn sử dụng một hệ thống động từ “giữ, truyền, gánh, đắp, be” làm nổi bật một hình tượng thật lực lưỡng. Quá trình hình thành văn hóa của đất nước giống như một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân dân qua các thế hệ. Hai câu cuối đoạn: Lời tổng kết cho tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân. Những khái niệm "Đất Nước", Nhân Dân được viết hoa trang trọng, lặp lại nhiều lần cho thấy sự gắn bó không thể tách rời của nhân dân và đất nước. Cụm danh từ “Đất Nước của Nhân Dân” khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bởi Nhân dân chính là người dựng xây, gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ Đất Nước nên Đất Nước phải thuộc về Nhân dân. Câu thơ “Đất Nước của ca dao thần thoại”: Hình ảnh ca dao thần thoại là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Nhân dân. Văn học dân gian do nhân dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống của nhân dân, đến với văn học dân gian cũng là đến với Nhân dân.

** Đánh giá

Đoạn thơ thể hiện đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm: Chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự, ngôn ngữ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng. Đoạn trích thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Những nhận thức mới về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp đất nước ở góc độ lịch sử, văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi con người.

Xem thêm: Ngọc thạch 3 màu đột biến, trồng và chăm sóc lan ngọc thạch

* Kết bài

Khẳng định nét riêng của Nguyễn Khoa Điềm khi viết về "Đất Nước". Đoạn thơ khẳng định chính Nhân dân làm nên những giá trị lâu bền cho "Đất Nước".

Đại học Đông Á chúc các em có một kỳthi thành công!