Văn mẫu lớp 10: Bình giảng đoạn thơ Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều - từ "Người lên ngựa kẻ chia bào" đến "Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường" gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Bạn đang xem: Thúc sinh từ biệt thúy kiều
Bình giảng đoạn trích Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều - từ "Người lên ngựa kẻ chia bào" đến "Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường"
Chia li và hội ngộ, hội ngộ và chia li, hai sự kiện trái ngược và nối tiếp chia cái đời thường của mỗi con người ra thành những đoạn, những chặng giàu ý nghĩa hơn. Phải, nếu không có chia li và hội ngộ thì cuộc sống sẽ chỉ là một dòng chảy đơn điệu và nhàm tẻ. Nếu hội ngộ là sướng vui, thì chia li là sầu muộn, đau buồn. Có lẽ vì thế mà thơ ca viết về chia li nhiều hơn, thấm thía hơn, kết tình được nhiều giá trị hơn?
Nói đến những áng thơ ca hay nhất của chia li tiễn biệt, có lẽ không ai quên được đoạn Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều của Nguyễn Du. Cảnh biệt li, thơ biệt li ở đây đã vĩnh viễn trở thành cổ điển - thêm một lý do để Truyện Kiều bất hủ muôn đời.
Cuộc chia li này được nhìn từ phía người ở, phía Thúy Kiều được Nguyễn Du đã nhập thân vào nàng Kiều để cảm nhận và tái hiện cuộc biệt li một cách sống động và chi li (vì thế, mà nên chăng nhan đề của đoạn trích cần chỉnh lại một chút thì chuẩn xác hơn: Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh). Nhà thơ không chịu là người đứng giữa làm nhân chứng, mà nghiêng hẳn về phía Kiều, thương cà đôi lứa, nhưng thương người phụ nữ tài sắc suốt đời bất hạnh nhiều hơn.
Ngay câu mở đầu đã là sự chia phối, đôi câu đầu đã mở thẳng vào cái thế giới của li biệt:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã Nhuộm màu quan san.
Trong cả đoạn thơ này không còn một từ nào biểu thị sự gắn bó đôi lứa nữa. Kể từ cái câu đầu kia, sự li biệt đã len vào giữa để chia lia lứa đôi rồi. Câu thơ đi nhịp 3/3 không phải tạo ra một cặp gắn kết mà tạo ra sự tan vỡ, câu thơ ngắt đôi để biểu hiện sự trái ngang chia uyên rẽ thuý. Đôi đã vỡ ra thành "người” và "kè", hai nửa chia lìa, hai mảnh cô đơn. Bắt đầu từ đây, mỗi người bị ném vào một thế giới của chia li - "Người lên ngựa/ kẻ chia bào". Họ hãy còn bên cạnh nhau, nhưng mỗi người đã bắt đầu dạt về một thế giới. Câu thứ hai là khung cảnh thiên nhiên mùa thu với sắc màu của li biệt. Chỗ đặc sắc là Nguyễn Du tả chia biệt trước, vẽ thiên nhiên sau. Trật tự tuyến tính của lời thơ cũng như hiệu ứng của nhịp điệu thơ đã tạo ra một hiệu quà nghệ thuật không ngờ. Không phải mùa thu có trước, chia li xảy ra sau - mùa thu xui khiến buồn sầu. Mà ngược lại, mùa thu bắt đầu hiển hiện, bắt đẩu dâng lên từ chính cái giây phút "Người lên ngựa kẻ chia bào". Mùa thu ra đời vào đúng các lúc bàn tay kẻ tiễn buông rời vạt áo người đi. Mùa thu từ đó tràn ra xâm chiếm trời đất, Nhuộm màu cỏ cây. Có phải cứ đọc lên, ta sẽ thấy theo đà của nhịp thơ một thứ sắc thu nào đó vừa mơ hồ vừa hiện hữu cứ loang ra Nhuộm màu lên cả một chuỗi âm thanh trong cập lục bát này? Chỉ "Nhuộm" là chỗ tình diệu của ngòi bút Nguyễn Du. Hai thế kỷ sau, cũng viết về sự biến đổi sắc màu trong cây cỏ, Nguyễn Bính viết:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
(Tương tư)
Trong nỗi tương tư này phải là "nhuộm". Nó đã xong rồi, tĩnh rồi. Anh chờ em từ ngày lá hãy còn xanh, đằng đẵng thời gian đến nỗi đã đủ nhuộm lá xanh thành hẳn cây lá vàng rối! Vậy mà em vẫn hững hờ - cây thì héo úa, người thi héo hon. Còn ở cuộc chia tay Kiều - Thúc lại phải là "nhuộm". Xuân Diệu rất tình khi thấy "nhuộm" là vật chất, "nhuộm" là tình thần. "Nhuộm" còn động hơn, chưa hoàn tất, sự biến màu đang diễn ra. "Nhuộm" còn là cái sắc thái, cái sắc màu vốn từ cuộc chia li của lứa đôi ánh xạ sang cây cỏ, phổ vào mỗi một lá phong! Và "màu quan san" cũng là một thứ màu huyền diệu. Đó là màu đỏ của lá phong, đó cũng là màu của xa xôi diệu vợi, màu cứa lưu luyến lo âu. Các thi sĩ đời sau sẽ còn tạo ra những gam màu lạ nữa. Tế Hanh thi "Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị”, Chế Lan Viên thì "Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên"... Nhưng lối pha màu ở đó xem ra để gần gũi với cái "màu quan san" của Nguyễn Tiên Điền.
Dường như tôi đã có phần "quyến luyến" với hai câu đầu? Nhưng làm sao khác được, chỉ riêng hai câu đầu ấy đủ sánh với cả một bài thơ hay!
Thế rồi, theo với vó ngựa của kẻ ra đi, nỗi buồn cứ tràn ra mãi.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Ta thấy đôi mắt nàng Kiều nuối nhìn đầy quyến luyến cũng đầy lo âu. Cái bóng của Thúc Sinh là nơi nương tựa, bấu víu duy nhất của nàng Kiều trên cõi đời này vào hoàn cảnh này. Còn thấy bóng người là còn đó chút chơ vơ!
Phải nói rằng Nguyễn Du đã phát huy tận độ phép tương xứng của ngôn từ thơ. Và cũng phải thấy rằng lối tương xứng, đối xứng của thể lục bát thật là biến ảo kỳ lạ. Có lúc sự đối xứng tạo ra sự sánh đôi, sóng đôi, gắn kết. Có lúc đối xứng lại tạo ra sự chia rẽ, phân li, lúc thì hợp, lúc lại tan... Trong đoạn thơ này, khi hình thức "đối" xuất hiện là lúc lứa đôi bị đầy về hai cực, hai đầu mút của sự chia lìa. Mỗi người hiện ra như một cá thể trơ trọi, bơ vơ, đơn lẻ Có thể đôi nằm trong tương quan giữa - câu Lục và câu Bát, có thể tiểu đối trong câu Lục, Tiểu đối trong câu Bát... thậm chí, bằng lối nói thành ngữ, thi hào Nguyễn Du còn tạo ra phép đối ngay trong từng vế nhỏ:
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Câu lục: "Người về" - Câu hát: "Kẻ đi", "chiếc bóng năm canh: thời gian - "Muôn dặm một mình": Không gian. Ấy là những câu lớn, vế lớn.
Nhìn sâu vào từng vế, còn thấy tương phân chi li hơn: "chiếc bóng - năm canh", và "muôn dặm - một mình". Với hình thức ấy, thi hào đã tạo ra được hai khung trời cô đơn đối với nhau, và thấm thía hơn nữa, trong mỗi một vòm trời ấy mỗi người lại thui thủi trong gánh nặng đơn côi với chính mình. Nhưng cứ đọc kỹ vào câu thư kia mà xem, Nguyễn Du đã hiểu thấu lòng Kiều; cho nên Kiều thương thân một phần, thương chàng Thúc muôn phần. Thúc Sinh được bao bọc trong nhớ nhung và trong lo âu không ngớt của Thuý Kiều. "Muôn dặm một mình xa xôi", đâu chỉ có buồn tủi, có khó nhọc, mà còn đầy những bất trác nữa. Nỗi đời là thế, biệt li bao giờ cũng đong đầy nhớ thương. Nhất là thương!
Đoạn thơ khép lại bằng hai câu vừa Cổ điển vừa rất đỗi hiện đại:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Đền đây, chúng ta đã thấy thật rõ: hai nửa cô đơn lia xa từ câu đầu và đến lúc này một nửa ấy đã trôi dạt đến tận cùng của xa cách, biệt li. Nỗi sầu chia phôi nhuộm màu quan san, tràn theo vó ngựa loang khắp xứ này. và bây giờ theo với vầng trăng đã giăng mác cả trong bầu trời. Cả vũ trụ đã Nhuốm màu chia li. Dường như họ thấy trong cả vũ trụ chỉ có hai người thôi, và hai người đang trôi dạt ở hai đầu tương tư! Vầng trăng sum hop, đoàn viên đã bị sự chia li ngang trái xẻ thành hai nửa. Đôi câu lục bát này cũng vẽ ra một khung trời, một thế giới riêng phù hợp với người đàn bà Thuý Kiều. Ấy là một khung trời lứa đôi gắn liền với chăn gối. Nỗi nhớ mà Thuý Kiều dành cho chàng Thúc không giống với cái thời còn e ấp với chàng Kim. Nỗi cô đơn gối chiếc gắn liền với những khát khao thầm kín Người đàn bà trông trăng in gối chiếc mà vò võ nhớ mong. Ngày xưa, Trương Cửu Linh cũng viết về sự trông đợi hao mòn cùng với vầng trăng của người thiếu phụ:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.
Nhà thơ đời Đường này nghiêng về sự mỏi mòn hao khuyết, còn thi hào Nguyễn Du thì thấy cái nghịch lý của trăng trong nỗi cô đơn. Tràng vẫn đấy, trăng vẫn đấy, nhưng là với những kẻ không cô đơn! Còn với đôi lứa này, mỗi đau xa cách họ vẫn thấy trăng, nhưng họ mang theo bên mình một nửa trăng thôi. Mỗi người chỉ có một nửa trăng khuyết. Chỉ khi nào sum họp hai nửa kia hợp lại mới có một vầng trăng đầy! Lối liên tưởng táo bạo ấy về trăng thật gần gũi với lối tư duy thơ hiện đại. Vậy là Thúc Sinh đã ra đi, từ câu đầu tiên cho đến câu cuối cùng là đi trong lưu luyến, trong lo âu, trong nhung nhớ và cả trong nỗi khát mong đang thầm kín dày vò Thuý Kiều. Thế mới biết Nguyễn Du hiểu những điều sâu kín của con người biết bao, ngòi bút của thi hào nhân bản biết bao!
Là một nhà thơ Cổ điển, Nguyễn Du phải sử dụng những vật liệu ước lệ, cách điệu là điều đương nhiên. Chúng ta có thể thấy thật nhiều, những "chia bào", "dặm hồng", "ngàn dâu xanh", "chiếc bóng, "gối chiếc", "năm canh", "dặm trường"... trong cảnh tiễn biệt này, loại thi liệu ấy rất dễ bị xơ cứng, trơ lì. Và cả trong thực tế, ở không ít tác phẩm Cổ điển, loại thi liệu ấy đã không chở nổi cảm xúc của tác giả vượt qua được thời gian Xúc cảm cứ rơi dần cơ hổ chỉ còn xác chữ.
Còn trong thơ Nguyễn Du không thế. Với một bầu tâm huyết lớn, ông đã gửi xúc cảm của mình vào ngôn từ, chất đầy cảm xúc vào từng câu chữ. Cho nên, cả những chữ có nguy cơ mòn sáo cũng đã được cảm xúc hỏi sinh. Tất cả vẫn có hồn. Lời nào cũng thấm thía. Dưới ngòi bút Nguyễn Du những chữ ấy như mới lần đầu sinh ra. Nó vẫn rung được lòng người đọc Hôm nay, những người sống sau Nguyễn Du hơn hai thế kỷ, cách Nguyễn Du cà một thời đại văn học. Phải chăng đó chính là chỗ khác nhau của ngòi bút thiên tài với ngòi bút khác.
Xem thêm: Danh Sách Các Trường Mầm Non Công Lập Quận 6, Tp, Trường Mầm Non Rạng Đông
Trên đây Vn
Doc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 10, đề thi học kì 2 lớp 10 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
21 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng môn Ngữ văn 10 - Tiết 88: Thúc sinh từ biệt Thuý Kiều, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kiểm tra bài cũ Đoạn trích :Những nỗi lòng tê tái
Câu hỏi :1/Khi ở lầu xanh, Kiều đã có sự so sánh giữa cuộc sống của mình ở quá khứ và hiện tại? Hãy đọc và phân tích ngắn gọn các câu thơ ấy? 2/ Đoạn trích thành công nhờ vào những yếu tố nghệ thuật gì ?
Tiết : 88Đoạn trích : Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du ) Chénđưanhớbữahômnay,Chén mừng xinđợingàynàynămsau!Từ biệt THÚY KIỀU Người lên ngựa , kẻ chia bào ,Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san. Dặm hồng bụi cuốn chinh an ,Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. Người về chiếc bóng năm canh ,Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi . Vầng trăng ai xẻ làm đôi ,Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường .I. GIỚI THIỆU:1. Vị trí :- Trích từ câu 1519 –1526 (Truyện Kiều).2. Bố cục:- Phần 1 (4 câu đầu): Cảnh biệt li.- Phần 2 (4 câu sau): Tình li biệt.Cảnh biệt li và tình li biệt giữa Thúc Sinh và Thuý Kiều.3. Đại ý:- Thuý Kiều tiễn đưa Thúc Sinh về gặp Họan Thư để kể rõ sự thật II. PHÂN TÍCH:1. Cảnh biệt li:Ngườilênngựa,kẻchiabào,II. PHÂN TÍCH:1. Cảnh biệt li:Kẻ ra đi :“Lên ngựa” > Không gian xa rộng, mênh mông hiu hắt tương phản với hình ảnh người tiễn cô đơn đang dõi theo.+ “Trông người”: Dëặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh .Cái nhìn dõi theo thể hiện tình cảm sâu nặng của người ở lại 4 câu thơ đã tạo nên bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc . Bên cạnh, đó còn là bức tranh của nội tâm, bức tranh li biệt. TIỂU KẾT : Động từ “Xẻ”Vầng trăng ai xẻ làm đôi“Muôn dặm”, “xa xôi”“Một mình”Kẻ đi:2. Tình li biệt:* Đối ngẫu:Người về:“Chiếc bóng”“Năm canh”Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Phũ phàng mạnh mẽ-> Sự lẻ loi, cô độc của người về, kẻ đi
Câu hỏi tu từ như một lời cảm thán xót xa Tâm trạng nhớ thương và cô đơn tột cùng. “Xẻ” thể hiện sự chia lìa mạnh mẽ , sự cách biệt phũ phàng, đau đớn.* Hình ảnh ước lệ: “Vầng trăng” xẻ nửa: Đơn chiếc trên đường trường“Muôn dặm”, “xa xôi”“Một mình”Kẻ đi:2. Tình li biệt:* Đối ngẫu:Lẻ loi suốt canh thâu
Người về:“Chiếc bóng”“Năm canh”Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường* Đối lập : Hai nửa vầng trăng = 2 cảnh ngộ nhưng 1 tâm trạng * Nhịp thơ 4/4 :Tô đậm nỗi đau chia cắt Hình ảnh ẩn dụ: “vầng trăng xẻ đôi”:-> Báo trước sự biệt ly khó có ngày tái hợp Đây là cảm nhận của Thuý Kiều về số phận của cả hai người. Ở họ, trong nỗi cô đơn như còn chứa đựng cả lo âu và linh cảm sự chia li là mãi mãi.TIỂU KẾT: Đoạn trích thể hiện sự hoà nhập sâu sắc giữa thiên nhiên và con người trong cảnh chia tay. Nguyễn Du đã thể hiện khát vọng hạnh phúc - một hạnh phúc bình thường dung dị - của người phụ nữ trong XH PK.1/ Nội dung:III.TỔNG KẾT:Phân tích 4 câu thơ cuối của đoạn trích: “ Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều”.* Bài tập vận dụng:* Hệ thống từ ngữ giàu sắc thái trữ tình.* Hình thức đối ngẫu trong thơ ca truyền thống.* Bút pháp tả cảnh ngụ tình.2. Nghệ thuật:* Vận dụng sáng tạo chất liệu Văn học dân gian
Nhà nho Vũ Trinh thời nhà Nguyễn: Đoạn thơ Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều “ngang giá với một thiên phú li biệt”